Nội Dung Quyền Của Nhà Sản Xuất Bản Ghi Âm, Ghi Hình

cuộc biểu diễn. Trừ trường hợp cuộc biểu diễn được thực hiện với mục đích để phát sóng [25, điểm c khoản 3 Điều 29].

d) Phân phối đến công chúng bản gốc và bản sao cuộc biểu diễn của mình thông qua hình thức bán, cho thuê hoặc phân phối bằng bất kỳ phương tiện kỹ thuật nào mà công chúng có thể tiếp cận được [25, điểm d khoản 3 Điều 29].

Khi xác định người biểu diễn được hưởng các quyền nào trong các quyền nói trên cần phải căn cứ vào tư cách chủ thể của họ đối với cuộc biểu diễn. Người biểu diễn có hai tư cách là chủ sở hữu quyền liên quan và là người biểu diễn. Nếu được xác định là chủ sở hữu quyền liên quan thì người biểu diễn được hưởng đầy đủ các quyền nhân thân và quyền tài sản. Ngược lại thì họ chỉ được bảo hộ quyền nhân thân và nhận thù lao khi biểu diễn, khi bản ghi âm, ghi hình có cuộc biểu diễn đã được công bố nhằm mục đích thương mại để thực hiện chương trình phát sóng và việc sử dụng các bản ghi âm, ghi hình trong hoạt động kinh doanh, thương mại. Việc hưởng tiền thù lao của người biểu diễn trong các trường hợp này tùy thuộc vào thỏa thuận giữa người biểu diễn và nhà sản xuất bản ghi âm, ghi hình khi thực hiện chương trình ghi âm, ghi hình.

Đối với người biểu diễn, pháp luật các quốc gia thường qui định họ có quyền ngăn cấm việc thu âm, phát sóng chương trình biểu diễn trực tiếp của họ khi không được sự cho phép của họ, quyền ngăn cản việc sản xuất các bản ghi từ chương trình biểu diễn của họ. Nhưng nói chung, các quyền liên quan đến việc phát sóng đến công chúng các buổi biểu diễn thường là quyền nhận các khoản thù lao thỏa đáng hơn là ngăn cản hoạt động đó. Do có tính sáng tạo cá nhân nên việc pháp luật qui định quyền độc quyền của chủ sở quyền đối với cuộc biểu diễn nhằm ngăn cấm các hành vi xâm phạm trái phép đối với các quyền của họ đối với cuộc biểu diễn. Quy mô và tính chất cuộc biểu

diễn không ảnh hưởng đến quyền của người biểu diễn. Cuộc biểu diễn có thể chỉ đơn giản có một người biểu diễn như nhạc công độc tấu một bản nhạc, cũng có thể có rất nhiều người biểu diễn cùng tham gia như một vở kịch hay một buổi biểu diễn ca nhạc lớn. Để thực hiện một cuộc biểu diễn lớn như vậy thường cần có sự hợp tác của rất nhiều người nhưng chỉ những người tham gia trực tiếp trình diễn, thể hiện tác phẩm mới được coi là người biểu diễn. Khi cuộc biểu diễn có nhiều người cùng tham gia biểu diễn thì vai trò của họ trong việc sáng tạo trong cuộc biểu diễn đều được pháp luật bảo hộ như nhau, không có sự phân biệt bảo hộ ít hay nhiều cho dù họ tham gia vào cuộc biểu diễn với sự sáng tạo khác nhau. Mọi người được coi là người biểu diễn sẽ có đầy đủ các quyền nhân thân và quyền tài sản (nếu có) theo qui định tại Điều 19 Luật SHTT. Việc hưởng các quyền nhân thân là đương nhiên và mọi người biểu diễn đều được pháp luật ghi nhận bảo hộ như nhau. Việc hưởng các lợi ích từ việc khai thác, sử dụng quyền tài sản đối với cuộc biểu diễn sẽ được chia đều cho tất cả người biểu diễn mà cũng không có sự bảo hộ khác nhau đối với từng người biểu diễn.

Ngoài ra, với tư cách là người sử dụng tác phẩm của người khác, người biểu diễn phải có nghĩa vụ nhất định đối với tác giả của tác phẩm mà họ biểu diễn như:

a) Phải xin phép tác giả hoặc chủ sở hữu quyền tác giả trước khi sử dụng tác phẩm của họ để trình diễn [25, khoản 3 Điều 20]. Chỉ được biểu diễn khi có sự cho phép của tác giả hoặc chủ sở hữu quyền tác giả đối với tác phẩm nếu tác phẩm chưa được công bố.

b) Phải trả thù lao cho tác giả hoặc chủ sở hữu quyền tác giả của tác phẩm biểu diễn, trừ trường hợp biểu diễn tác phẩm sân khấu và các loại hình biểu diễn nghệ thuật khác trong các buổi sinh hoạt văn hóa, tuyên truyền cổ động ở nơi công cộng [25, điểm e khoản 1 Điều 25].

Ở các nước, việc khai thác qua mạng điện thoại di động nhạc chuông/nhạc chờ, hình ảnh ca sĩ… đang mang lại những khoản tiền rất lớn đồng thời những tranh chấp giữa ca sĩ với các công ty sản xuất băng đĩa cũng diễn ra thường xuyên. Ở Việt Nam tình trạng vi phạm quyền của người biểu diễn cũng diễn ra rất phổ biến. Dưới đây, tác giả xin được dẫn chứng trường hợp điển hình về việc bảo hộ đối với quyền của người biểu diễn được đăng tải trên các phương tiện thông tin đại chúng trong thời gian qua.

Trong năm 2009, xảy ra sự việc ca sĩ Mỹ Tâm đã yêu cầu nhiều công ty viễn thông và hàng chục website nhạc số không được kinh doanh các bản nhạc chuông, nhạc chờ có sử dụng các bài hát do ca sĩ thể hiện hoặc phải trả tiền ca sĩ về việc sử dụng các bài hát do ca sĩ Mỹ Tâm thể hiện. Trong sự việc này đã có nhiều quan điểm khác nhau của các bên trong việc thực hiện nghĩa vụ đối với quyền liên quan của người biểu diễn. Một số công ty có sử dụng các bài hát do ca sĩ Mỹ Tâm thể hiện cho rằng họ không phải trả tiền cho người biểu diễn mà chỉ trả cho hãng sản xuất băng đĩa và họ đã trả qua Hiệp hội Công nghiệp ghi âm Việt Nam (RIAV). Bên phía ca sĩ Mỹ Tâm khẳng định chưa bao giờ ký hợp đồng chuyển giao quyền của người biểu diễn cho bất cứ hãng băng đĩa nào. Vì vậy, việc một số hãng băng đĩa nói rằng họ có quyền sở hữu các cuộc biểu diễn của ca sĩ là sai pháp luật. Các hãng băng đĩa liên quan trong vụ việc này và RIAV lại cho rằng, căn cứ vào điều 29.1 Luật Sở hữu trí tuệ, toàn bộ các bản ghi âm, ghi hình này thuộc quyền sở hữu của các nhà sản xuất, còn Mỹ Tâm chỉ có các quyền nhân thân, vì các bản ghi âm, ghi hình đều do họ đầu tư, ca sĩ chỉ biểu diễn để ghi âm, ghi hình và đã nhận đủ tiền thù lao.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 104 trang tài liệu này.

Từ sự việc trên ta nhận thấy các qui định của pháp luật về bảo hộ quyền liên quan đối với quyền của người biểu diễn còn có nhiều cách hiểu khác nhau đối với chính những người có quyền lợi trực tiếp. Đây là cách hiểu và áp

dụng pháp luật hay các qui định của pháp luật còn nhiều bất cấp, qui định chưa rõ ràng để dẫn tới sự hiểu không thống nhất dẫn đến các tranh chấp như sự việc trên? Các qui định của pháp luật đã cụ thể, rõ ràng, có lẽ đây chỉ là cách hiểu và áp dụng pháp luật của chính những người có quyền và lợi ích liên quan.

Bảo hộ quyền liên quan theo Luật Sở hữu trí tuệ Việt Nam - 8

Về quyền liên quan của người biểu diễn, khoản 1 Điều 29 Luật SHTT của Việt Nam quy định: Người biểu diễn đồng thời là chủ đầu tư thì có các quyền nhân thân và các quyền tài sản đối với cuộc biểu diễn; trong trường hợp người biểu diễn không đồng thời là chủ đầu tư thì người biểu diễn có các quyền nhân thân và chủ đầu tư có các quyền tài sản đối với cuộc biểu diễn. Điều 745 khoản 1 Bộ luật Dân sự 2005, về nội dung, cũng tương tự như khoản 1 Điều 29 Luật SHTT. Rõ ràng, với các quy định này, pháp luật quyền liên quan của Việt Nam đang bảo vệ người đầu tư để thực hiện cuộc biểu diễn mà không phải chính người biểu diễn (với giả định trong trường hợp các bên không có thỏa thuận khác), vì chỉ người đầu tư mới có các quyền tài sản đối với cuộc biểu diễn, còn người biểu diễn chỉ có các quyền nhân thân (được nêu tên khi biểu diễn và được bảo vệ sự toàn vẹn của hình tượng biểu diễn). Nếu không phải là chủ đầu tư, người ca sĩ sẽ không được hưởng các quyền tài sản mà pháp luật bảo hộ do người biểu diễn đã được nhà đầu tư bù đắp cho việc tạo ra cuộc biểu diễn nên nhà đầu tư sẽ có quyền sở hữu cuộc biểu diễn (và đó cũng là các điểm tựa pháp lý quan trọng cho các đàm phán hợp đồng giữa ca sĩ với, ví dụ, các nhà sản xuất bản ghi âm, ghi hình, tổ chức phát sóng), như các quyền ngăn cấm người khác thu hình hoặc phát sóng cuộc biểu diễn trực tiếp.

Các quy định này của pháp luật Việt Nam là chưa có sự thống nhất và phù hợp với các quy định về quyền của người biểu diễn trong các điều ước quốc tế mà Việt Nam đang tham gia, cụ thể là Điều 7 của Công ước Rome

1961, khoản 7 Điều 4 Chương II Hiệp định Thương mại Việt Nam – Hoa Kỳ, và Điều 14.1 TRIPS. Có một điểm quan trọng cần lưu ý rằng: Công ước Rome và Điều 14.1 TRIPS đều nhằm bảo hộ các “sáng tạo nghệ thuật” (atistic achievement hay acts of spiritual creation) của nghệ sĩ biểu diễn, mà không phải nhằm bảo vệ “các lợi ích về kỹ thuật và tài chính” (technical and financial interests) như trong trường hợp đối với các nhà sản xuất bản ghi âm và tổ chức phát sóng. Vậy, liệu các ca sĩ có thể vận dụng quy định của khoản 3 Điều 5 Luật SHTT – nói rằng khi quy định của Luật SHTT khác với điều ước quốc tế thì áp dụng điều ước quốc tế – để đòi lại từ chủ đầu tư các quyền tài sản cho mình? Việc pháp luật quốc tế bảo hộ quyền của người biểu diễn trên cơ sở các sáng tạo nghệ thuật giúp cho người biểu diễn sẽ được hưởng đầy đủ các quyền nhân thân và quyền tài sản.

Có lẽ trước mắt, để tự bảo vệ mình trước khi Việt Nam có một hệ thống pháp luật hoàn thiện, các ca sĩ nên ký các hợp đồng đầy đủ, chi tiết và chặt chẽ với người quản lý, nhà sản xuất và các công ty băng đĩa để tránh những thiệt hại có thể rất lớn về vật chất.

2.3.2 Nội dung quyền của nhà sản xuất bản ghi âm, ghi hình

Nhà sản xuất bản ghi âm, ghi hình là người định hình lần đầu âm thanh, hình ảnh của cuộc biểu diễn hoặc của các tác phẩm khác nên họ được hưởng các quyền đối với kết quả lao động do họ tạo ra. Theo Điều 30 Luật SHTT nhà sản xuất bản ghi âm, ghi hình có các quyền như sau:

a) Độc quyền thực hiện hoặc cho phép người khác sao chép trực tiếp hoặc gián tiếp bản ghi âm, ghi hình.

b) Độc quyền thực hiện hoặc cho phép người khác phân phối đến công chúng bản gốc và bản sao bản ghi âm, ghi hình thông qua hình thức bán, cho thuê hoặc phân phối bằng bất kì phương tiện kĩ thuật nào mà công chúng có thể tiếp cận được.

Và nhà sản xuất bản ghi âm, ghi hình được hưởng quyền lợi vật chất khi bản ghi âm, ghi hình được phân phối đến công chúng.

Mặt khác, để sản xuất bản ghi âm, ghi hình các tổ chức, cá nhân này phải sử dụng tác phẩm hoặc chương trình biểu diễn của người khác. Với tư cách là người sử dụng tác phẩm của người khác, nhà sản xuất bản ghi âm, ghi hình phải có nghĩa vụ với tác giả hoặc chủ sở hữu của tác phẩm và người biểu diễn hoặc chủ sở hữu quyền liên quan đối với cuộc biểu diễn, bao gồm các nghĩa vụ sau:

a) Khi sử dụng tác phẩm nhà sản xuất bản ghi âm, ghi hình phải xin phép tác giả hoặc chủ sở hữu tác phẩm thông qua việc giao kết hợp đồng sử dụng tác phẩm [25, khoản 3 Điều 20]. Khi sử dụng tác phẩm, các tổ chức này phải nêu tên thật hoặc bút danh của tác giả, trả thù lao cho tác giả hoặc chủ sở hữu tác phẩm, đảm bảo sự vẹn toàn nội dung của tác phẩm.

b) Khi sử dụng chương trình của người biểu diễn để sản xuất bản ghi âm, ghi hình, nhà sản xuất bản ghi âm, ghi hình phải giao kết hợp đồng với chủ sở hữu quyền liên quan đối với cuộc biểu diễn, phải nêu tên thật của người biểu diễn và phải trả thù lao cho họ [25, khoản 4 Điều 29].

Thực tiễn hiện nay việc sử dụng các bản ghi âm, ghi hình mà chưa được sự cho phép của chủ sở hữu vào mục đích kinh doanh như sử dụng tại nhà hàng, khách sạn, cửa hàng, siêu thị; cơ sở kinh doanh dịch vụ karaoke, dịch vụ bưu chính, viễn thông, môi trường kỹ thuật số; trong các hoạt động du lịch, hàng không, giao thông công cộng và các hoạt động kinh doanh, thương mại khác là rất phổ biến. Điển hình là vấn nạn sao chép trái phép bản ghi âm, ghi hình (sao chép băng đĩa lậu) đã gây ra thiệt hại rất nhiều cho các hãng sản xuất băng đĩa chính thống, đồng thời cũng là con đường lây lan, phổ biến các loại văn hóa phẩm độc hại đối với xã hội.

Theo báo cáo tổng quan về hoạt động bảo hộ và thực thi quyền sở hữu trí tuệ tại Việt Nam năm 2009, Thanh tra Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch ở các địa phương đã phối hợp với lực lượng chuyên ngành xử lý nghiêm các cơ sở sản xuất lậu, các cơ sở phát hành và các cửa hàng bán lẻ các loại đĩa CD, VCD, DVD. Thanh tra sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch và đội kiểm tra liên ngành một số tỉnh, thành phố đã tiến hành kiểm tra 14.429 cơ sở, phát hiện và xử lý 3.013 cơ sở vi phạm, xử phạt cảnh cáo 188 cơ sở, tạm giữ giấy phép 37 cơ sở, đình chỉ hoạt động 143 cơ sở. Tang vật thu giữ gồm

649.324 đĩa các loại, 3.885 cuốn sách và văn hóa phẩm, 89 đầu máy tivi, karaoke, 23 máy vi tính, 79 loa, âm ly, tiêu hủy 26.398 đĩa, 247 tranh, 693 nhãn đĩa [9].

Sự vi phạm bản quyền các bản ghi âm cũng là thực trạng chung của nhiều quốc gia hiện nay. Những con số mà Hiệp hội ghi âm quốc tế (IFPI) đưa ra cho thấy nạn vi phạm bản quyền trên toàn cầu đã vượt mức báo động. Năm 2004, có tới 1,5 tỉ bản sao chép lậu với giá trị 4,6 tỉ USD. Đáng buồn là 80% băng đĩa lậu có nguồn gốc xuất xứ tại châu Á, chưa kể 870 triệu file nhạc sao lậu trên internet với 150.000 website được xây dựng với mục đích sao chép. Để nâng cao uy tín quốc tế, các nước Đông Nam Á cũng đang có những biện pháp mạnh và toàn diện như xây dựng hành lang pháp lý ổn định, có đầy đủ các cơ quan thực thi có năng lực chuyên biệt trong lĩnh vực quyền liên quan bên cạnh Công an, Hải quan, Tòa án…Đồng thời qui định khung hình phạt rất nặng trong các văn bản pháp luật có liên quan. Ví dụ, tại Malayxia xử phạt từ 550-2.600 USD hoặc 5 năm tù cho mỗi bản copy. Trong khi đó ở Việt Nam chưa bao giờ khung hình phạt tối đa được áp dụng cho tội in sang và buôn bán đĩa lậu dù qui mô có lớn đến đâu. Mức xử phạt hành chính cao nhất hiện nay chỉ là 500 triệu đồng và chưa hề có ai bị đi tù về tội này. Luật áp chưa đủ sức nặng để răn đe trong khi lợi nhuận khá cao đang

khiến việc bảo hộ bản quyền của các nhà sản xuất bản ghi âm trong nước chưa thực sự đạt hiệu quả. Điều này cũng ảnh hưởng đến uy tín của Việt Nam nhất là khi chúng ta đã và đang cam kết thực thi các cam kết quốc tế.

Theo báo cáo tổng quan về hoạt động bảo hộ và thực thi quyền sở hữu trí tuệ tại Việt Nam năm 2009 tình trạng tạo ra bản sao trái phép đối với các bản ghi dùng trong môi trường kỹ thuật số, internet hiện nay cũng khá phổ biến mà chưa có được biện pháp khắc phục hiệu quả. Thanh tra Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đã xác minh theo khiếu nại của Hiệp hội Công nghiệp ghi âm Việt Nam về việc Công ty Cổ phần dịch vụ trực tuyến FPT sử dụng các bản ghi âm tác phẩm âm nhạc trên website http://mp3.nhacso.nethttp://mp3.nhacso.net/nokia; Công ty Nokia bán điện thoại di động Nokia 5320 tặng kèm mã kích hoạch cho khách hàng tải miễn phí 1000 bài hát trên website http://mp3.nhacso.net/nokia; và Công ty TNHH Truyền thông tương tác FPT sử dụng các bản ghi âm, ghi hình tác phẩm âm nhạc trên truyền hình trực tuyến iTV mà không được sự đồng ý của chủ sở hữu quyền liên quan và yêu cầu các công ty này trả tiền sử dụng bản ghi âm, ghi hình cho chủ sở hữu. Trên cơ sở đó, các bên đã thỏa thuận và các công ty nói trên đã trả hơn 6 tỷ đồng cho các chủ sở hữu thông qua đại diện là Hiệp hội Công nghiệp ghi âm Việt Nam [9].

2.3.3 Nội dung quyền của tổ chức phát sóng

Với tư cách là chủ sở hữu của chương trình phát sóng do mình khởi xướng và thực hiện, tổ chức phát sóng được hưởng các quyền đối với chương trình phát sóng do mình xây dựng nên. Theo Điều 31 Luật SHTT, tổ chức phát sóng có các quyền như:

a) Độc quyền thực hiện hoặc cho phép người khác thực hiện phát sóng, tái phát sóng chương trình phát sóng của mình;

Xem tất cả 104 trang.

Ngày đăng: 22/11/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí