Quyền của người sử dụng lao động là từ chối thực hiện những yêu cầu không đúng quy định của pháp luật về BHXH và có quyền khiếu nại, tố cáo về BHXH... Mặt khác, đơn vị sử dụng lao động phải thực hiện đầy đủ trách nhiệm của mình là đóng BHXH cho người lao động theo quy định của Luật BHXH; bảo quản sổ BHXH của người lao động trong thời gian người lao động làm việc; lập hồ sơ để người lao động được cấp sổ, đóng và hưởng BHXH; trả trợ cấp BHXH cho người lao động; cung cấp tài liệu, thông tin liên quan theo yêu cầu của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền...[ 33, tr.17-18].
Việc xử lý vi phạm pháp luật về BHXH trước đây được thực hiện căn cứ vào Nghị định 113/2004/NĐ-CP và hiện nay thực hiện theo Nghị định 135/2007/NĐ-CP, ngày16/8/2007 của Chính phủ quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực BHXH. Các hành vi vi phạm pháp luật về BHXH của chủ sử dụng lao động được quy định trong Nghị định này đó là hành vi không đóng BHXH cho toàn bộ số người lao động thuộc diện tham gia BHXH bắt buộc; đóng BHXH không đủ số người thuộc diện tham gia BHXH bắt buộc; đóng BHXH không đúng thời gian quy định; đóng BHXH không đúng mức quy định; xác nhận không đúng thời gian và mức đóng BHXH cho người lao động. Hành vi xác nhận, lập danh sách không đúng thực tế để người lao động hưởng chế độ trợ cấp ốm đau, thai sản; không lập hồ sơ hoặc không làm thủ tục để người lao động hưởng BHXH trong thời hạn 30 ngày; không trả trợ cấp BHXH cho người lao động; không nộp hồ sơ để cơ quan BHXH cấp sổ BHXH cho người lao động; không bảo quản tốt sổ BHXH của người lao động dẫn đến sổ mất mát, hư hỏng, sữa chữa, tẩy xoá; không cung cấp thông tin hoặc báo cáo sai về BHXH cho các cơ quan nhà nước có thẩm quyền khi có yêu cầu...
Các hành vi vi phạm pháp luật về BHXH của người lao động là không đóng, chậm đóng BHXH bắt buộc hoặc thoả thuận với chủ sử dụng lao động không nộp BHXH bắt buộc; kê khai không đúng sự thật hoặc sửa chữa, tẩy xoá trong tài liệu hồ sơ liên quan đến việc hưởng BHXH; không cung cấp thông tin hoặc cung cấp thông tin sai lệch cho chủ sử dụng lao động và các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền; làm giả hồ sơ để hưởng BHXH.
1.1.2.4. Tổ chức bộ máy quản lý bảo hiểm xã hội
Để triển khai thực hiện chính sách BHXH theo Điều lệ BHXH, ngày 16/2/1995, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 19/CP thành lập BHXH Việt Nam trên cơ sở thống
nhất các tổ chức BHXH ở Trung ương và địa phương do ngành Lao động-Thương binh & Xã hội và Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam đang quản lý.
Thực hiện Quyết định số 20/2002/QĐ-TTg, ngày 24/01/2002 của Thủ tướng Chính phủ về việc chuyển Bảo hiểm y tế Việt Nam về BHXH Việt Nam, ngày 06/12/2002, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 100/2002/NĐ-CP quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của BHXH Việt Nam.
Có thể bạn quan tâm!
- Bảo hiểm xã hội Thanh Hoá - 1
- Bảo hiểm xã hội Thanh Hoá - 2
- Nội Dung Phân Cấp Quản Lý Thu, Chi Bảo Hiểm Xã Hội Ở Địa Phương
- Quá Trình Hình Thành Hệ Thống Tổ Chức Quản Lý Bảo Hiểm Xã Hội Thanh
- Tổng Hợp Đối Tượng Hưởng Chế Độ Bhxh Dài Hạn Từ Năm 2003 Đến Năm 2007
Xem toàn bộ 76 trang tài liệu này.
Chính phủ thành lập Hội đồng quản lý BHXH Việt Nam bao gồm đại diện của Bộ Lao động-TBXH, Bộ Tài chính, Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam, Bộ Y tế, Phòng Thương mại công nghiệp Việt Nam, Liên minh Hợp tác xã Việt Nam và BHXH Việt Nam để giúp Thủ tướng Chính phủ quản lý, chỉ đạo giám sát hoạt động của tổ chức BHXH.
Hội đồng quản lý Bảo hiểm xã hội Việt Nam có nhiệm vụ như sau
- Thẩm định kế hoạch hoạt động hàng năm, giám sát, kiểm tra thực hiện kế hoạch của tổ chức BHXH.
- Quyết định hình thức đầu tư quỹ BHXH theo đề nghị của tổ chức BHXH.
- Kiến nghị với cơ quan Nhà nước có thẩm quyền xây dựng, bổ sung chế độ, chính sách, pháp luật về BHXH, chiến lược phát triển của ngành, kiện toàn hệ thống tổ chức của BHXH, cơ chế quản lý và sử dụng quỹ BHXH.
- Đề nghị Thủ tướng Chính phủ bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức các chức danh lãnh đạo của tổ chức BHXH [33, tr.66].
Bảo hiểm xã hội Việt Nam, là đơn vị sự nghiệp thuộc Chính phủ có chức năng thực hiện các chế độ chính sách BHXH và quản lý sử dụng các quỹ BHXH theo quy định của pháp luật. BHXH Việt Nam được tổ chức và quản lý theo hệ thống dọc, tập trung, thống nhất từ Trung ương đến địa phương. ở Trung ương là BHXH Việt Nam; ở tỉnh, thành phố là BHXH tỉnh, thành phố; ở huyện, thị xã, thành phố là BHXH huyện, thị xã, thành phố.
Nhiệm vụ và quyền hạn của Bảo hiểm xã hội Việt Nam như sau
- Xây dựng trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt chiến lược phát triển ngành BHXH và kế hoạch năm năm về thực hiện chính sách BHXH; đề án bảo tồn và tăng trưởng quỹ BHXH.
- Chỉ đạo và tổ chức thực hiện chính sách BHXH; thu các khoản đóng BHXH bắt buộc và tự nguyện; chi các khoản trợ cấp về BHXH cho đối tượng tham gia BHXH đầy đủ, thuận tiện, đúng thời hạn theo quy định.
- Cấp các loại sổ, thẻ BHXH.
- Quản lý quỹ BHXH theo nguyên tắc tập trung, thống nhất theo chế độ tài chính của Nhà nước, hạch toán độc lập và được Nhà nước bảo hộ.
- Kiến nghị với Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ và các cơ quan nhà nước có liên quan về sửa đổi, bổ sung chính sách BHXH, cơ chế quản lý quỹ, cơ chế tài chính và tổ chức thực hiện sau khi được phê duyệt.
- Ban hành các văn bản hướng dẫn thực hiện việc giải quyết chế độ BHXH và nghiệp vụ thu, chi BHXH theo thẩm quyền.
- Kiểm tra việc thu chi BHXH đối với các cơ quan đơn vị, kiến nghị với cơ quan Nhà nước có thẩm quyền và cơ quan quản lý cấp trên của đơn vị sử dụng lao động để xử lý những hành vi vi phạm pháp luật về BHXH.
- Từ chối việc chi trả các chế độ BHXH khi đối tượng tham gia BHXH không đủ điều kiện hưởng hoặc khi không có căn cứ pháp lý về các hành vi giả mạo, khai man hồ sơ để hưởng BHXH.
- Bồi thường mọi khoản thu, chi sai quy định của pháp luật về chế độ BHXH cho đối tượng tham gia BHXH.
- Giải quyết khiếu nại tố cáo của tổ chức và cá nhân về việc thực hiện chính sách BHXH.
- Lưu trữ hồ sơ đối tượng tham gia và hưởng BHXH.
- Tổ chức nghiên cứu ứng dụng khoa học; ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý, điều hành hoạt động BHXH.
- Tổ chức đào tạo, bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ và thực hiện công tác tuyên truyền, phổ biến chính sách về BHXH.
- Thực hiện hợp tác quốc tế về BHXH.
- Chủ trì, phối hợp với các cơ quan Nhà nước có liên quan, các tổ chức chính trị xã hội ở Trung ương và địa phương, các bên tham gia BHXH để giải quyết các vấn đề có liên quan đến việc thực hiện chế độ chính sách BHXH.
- Quản lý công chức viên chức, tài chính, tài sản và thực hiện chế độ báo cáo với Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ và các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền.
- Nhiệm vụ, quyền hạn của Bảo hiểm xã hội tỉnh như sau
+ Tổ chức xét duyệt hồ sơ, giải quyết chính sách chế độ BHXH, cấp các loại sổ, thẻ BHXH.
+Tổ chức thực hiện các khoản đóng góp BHXH bắt buộc và tự nguyện.
+Tổ chức quản lý và phát triển đối tượng tham gia BHXH.
+ Tổ chức quản lý, lưu giữ hồ sơ các đối tượng hưởng BHXH.
+ Tổ chức thực hiện chi trả các chế độ BHXH cho các đối tượng đúng quy định.
+ Thực hiện quản lý, sử dụng các nguồn kinh phí, chế độ kế toán thống kê theo quy định của Nhà nước và BHXH Việt Nam.
+ Kiểm tra thực hiện chế độ thu, chi BHXH đối với các tổ chức sử dụng lao động, cá nhân. Kiến nghị cơ quan quản lý nhà nước cấp trên, cơ quan pháp luật để xử lý những hành vi vi phạm pháp luật về BHXH.
+ Giải quyết khiếu nại tố cáo của tổ chức và cá nhân theo thẩm quyền.
+ Tổ chức bồi dưỡng về chuyên môn nghiệp vụ BHXH trên địa bàn.
+ Tổ chức thông tin, tuyên truyền về BHXH.
+ Tổ chức ứng dụng khoa học; ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý, điều hành hoạt động.
+ Quản lý tổ chức, biên chế, cán bộ, công chức, viên chức tài chính và tài sản thuộc BHXH tỉnh theo phân cấp quản lý của BHXH Việt Nam.
- Nhiệm vụ, quyền hạn của Bảo hiểm xã hội huyện, thị xã, thành phố như sau
+ Xây dựng chương trình kế hoạch công tác năm trình Giám đốc BHXH tỉnh phê duyệt và tổ chức thực hiện.
+ Hướng dẫn đơn vị sử dụng lao động lập danh sách tham gia BHXH; đôn đốc, theo dõi việc thu nộp BHXH của các đơn vị trên địa bàn huyện hoặc trực tiếp thu theo phân cấp của BHXH tỉnh.
+ Tiếp nhận kinh phí, danh sách và tổ chức chi trả cho các đối tượng thụ hưởng các chế độ BHXH do BHXH chuyển đến theo phân cấp. Theo dõi việc thay đổi địa chỉ danh sách tăng giảm đối tượng hưởng chế độ trong quá trình chi trả.
+ Tiếp nhận đơn thư khiếu nại, tố cáo về BHXH để giải quyết theo thẩm quyền hoặc báo cáo BHXH tỉnh xem xét giải quyết.
+ Tổ chức ký kết hợp đồng trách nhiệm và quản lý mạng lưới chi trả BHXH ở xã, phường.
+ Thực hiện công tác tuyên truyền về BHXH.
+ Quản lý công chức viên chức, tài chính và tài sản theo quy định phân cấp của BHXH tỉnh.
1.2. Phân cấp quản lý thu, chi bảo hiểm xã hội
1.2.1. Khái niệm phân cấp quản lý thu, chi bảo hiểm xã hội
Có thể nói, phân cấp quản lý hiện đang được áp dụng khá phổ biến trong các hệ thống quản lý lớn, nhỏ ở nhiều ngành, lĩnh vực và ở nhiều quốc gia. Khi đề cập tới phân cấp quản lý của cơ quan Nhà nước ở phạm vi quốc gia, các tác giả cuốn" Xây dựng và hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam" đã đưa ra khái niệm phân cấp quản lý như sau:
Phân cấp quản lý là việc tái cơ cấu hay tổ chức lại thẩm quyền để tạo ra một hệ thống cùng chịu trách nhiệm giữa các cơ quan Nhà nước ở cấp Trung ương và các cấp địa phương, qua đó, tăng cường chất lượng và hiệu quả toàn diện của hệ thống quản lý, nâng cao thẩm quyền và năng lực của các cấp chính quyền địa phương [1, tr.29].
Tuy nhiên, nếu xem xét phân cấp quản lý nói chung, chúng ta có thể hiểu rằng phân cấp là việc tái cơ cấu hay tổ chức lại thẩm quyền để tạo ra một hệ thống cùng chịu trách nhiệm giữa các cơ quan quản lý các cấp, nhằm nâng cao hiệu quả quản lý.
Chúng tôi nhất trí với các tác giả trên về khái niệm phân cấp quản lý. Vận dụng khái niệm này vào quản lý thu, chi BHXH, chúng ta có thể xác định phân cấp quản lý thu, chi BHXH là việc tái cơ cấu hay tổ chức lại thẩm quyền để tạo ra một hệ thống cùng chịu trách nhiệm giữa các cơ quan quản lý BHXH các cấp (Trung ương, tỉnh/thành phố, huyện/quận/thị xã) nhằm nâng cao hiệu quả quản lý thu, chi BHXH.
Thực chất của phân cấp quản lý thu, chi BHXH là việc chia sẻ quyền lực của cấp trên cho cấp dưới, là việc phân định phạm vi trách nhiệm, quyền hạn của cơ quan quản lý BHXH các cấp. Phân cấp quản lý nói chung và phân cấp quản lý thu, chi BHXH nói riêng chính là sự vận dụng nguyên tắc tập trung trong quản lý. Phân cấp quản lý thu, chi BHXH là phương thức đảm bảo sự tham gia đông đảo của các thành viên, của cộng đồng vào quá trình ra quyết định quản lý. Việc cho phép các thành viên, các chủ thể quản lý ở cấp dưới tự giải quyết những nhu cầu có tính ưu tiên của mình sẽ nâng cao hiệu quả quản lý, hình thành được bộ máy quản lý cởi mở, thân thiện và gần dân hơn. Phân cấp quản lý cho phép phá vỡ tính cứng nhắc của sự tập trung quyền lực, đảm bảo sự linh hoạt, mềm dẻo, sát thực tiễn của các quyết định quản lý, theo đó, các chế độ, chính sách BHXH của Nhà nước được thực hiện có hiệu quả hơn.
Phân cấp quản lý thu, chi BHXH được xem xét ở nhiều góc độ khác nhau.
Nếu căn cứ vào các khâu của chu trình quản lý có thể có phân cấp quản lý trong lập kế hoạch, thu, chi BHXH, phân cấp trong tổ chức thực hiện thu, chi BHXH, phân cấp trong kiểm tra, kiểm soát hoạt động thu, chi BHXH.
Phân cấp quản lý thu, chi BHXH cũng có thể được thực hiện ở hai giai đoạn của hoạt động BHXH đó là phân cấp quản lý thu BHXH và phân cấp quản lý chi BHXH.
Nếu xét về tầm quản lý, có thể có phân cấp quản lý thu, chi BHXH ở cấp Trung ương và địa phương (phân định thẩm quyền quản lý giữa BHXH Việt Nam và BHXH ở địa phương).
Phân cấp quản lý thu, chi BHXH còn có thể được thể hiện ở phân cấp về phạm vi thẩm quyền ra quyết định quản lý thu, chi BHXH, phân cấp về tổ chức bộ máy, biên chế, phân cấp về kiểm tra xử lý các vấn đề nảy sinh trong quá trình quản lý thu, chi BHXH... Cách tiếp cận về phân cấp quản lý thu chi BHXH này sẽ được sử dụng trong đề tài.
1.2.2. Nguyên tắc phân cấp quản lý thu, chi bảo hiểm xã hội
Phân cấp quản lý thu, chi BHXH được thực hiện theo các nguyên tắc sau đây:
Một là, nguyên tắc hiệu quả.
Nguyên tắc này đòi hỏi việc nào, cấp nào sát thực tế hơn, giải quyết kịp thời và phục vụ tốt hơn các yêu cầu của tổ chức và đối tượng quản lý thì giao cho cấp đó quản lý, thực hiện. Cấp trên chỉ quản lý những việc mà cấp dưới không quản lý được, không thực hiện được hoặc quản lý, thực hiện không hiệu quả.
ở cấp quản lý càng cao, phạm vi mà chủ thể quản lý bao quát càng rộng, đối tượng càng xa chủ thể quản lý những quyết định/tác động của chủ thể quản lý càng khó chính xác, dễ bị quan liêu, không kịp thời.
Việc phân cấp quản lý cho cấp dưới không chỉ khắc phục được những hạn chế trên mà còn giảm bớt áp lực công việc cho chủ thể quản lý cấp trên, bảo đảm các mục tiêu được thực hiện một cách tốt nhất.
Hai là, nguyên tắc hài hoà trong phân cấp quản lý.
Nguyên tắc này đòi hỏi các nội dung phân cấp quản lý phải phù hợp với nhau, không mâu thuẫn chồng chéo nhau. Phân cấp quản lý lập kế hoạch thu, chi BHXH phải phù hợp với phân cấp tổ chức thực hiện và phù hợp với phân cấp kiểm tra, kiểm soát quản lý thu, chi BHXH. Phân cấp quản lý thu, chi BHXH phải phù hợp với phân cấp quản lý tổ chức bộ máy quản lý BHXH. Tổ chức quản lý BHXH được tổ chức thành một hệ thống gồm nhiều cấp, mỗi cấp có nhiệm vụ quyền hạn nhất định. Nguồn quỹ BHXH là nguồn tài chính được hình thành chủ yếu từ sự đóng góp của người lao động và chủ sử dụng lao động để đảm bảo thực hiện các chế độ chính sách BHXH theo quy định của pháp luật nên cũng phải được tổ chức cho phù hợp với cơ cấu tổ chức của chủ thể quản lý, sử dụng. Bên cạnh đó, việc phân cấp quản lý thu, chi BHXH cũng cần chú ý tới quan hệ giữa quản lý theo ngành và quản lý nhà nước của UBND các cấp, đảm bảo sự phối hợp nhịp nhàng trong việc tổ chức thực hiện.
Ba là, nguyên tắc đảm bảo quản lý tập trung thống nhất nguồn quỹ BHXH ở cấp Trung ương đồng thời bảo đảm tính độc lập tương đối của cấp địa phương (tỉnh, huyện) trong quản lý thu, chi BHXH.
Đây thực chất là một hình thái của nguyên tắc tập trung dân chủ trong phân cấp quản lý thu, chi BHXH. Cơ sở của nguyên tắc này xuất phát từ vị trí quan trọng của cấp Trung ương trong việc quản lý, điều hành, đầu tư tăng trưởng, đảm bảo an toàn quỹ và đảm bảo nguồn chi BHXH cho các đối tượng trên toàn quốc. Việc tạo cho cấp tỉnh, huyện có sự độc lập tương đối là rất cần thiết nhằm phát huy tính chủ động sáng tạo của các địa phương trong việc khai thác, phát triển đối tượng, nguồn thu và thực hiện kịp thời chế độ chính sách BHXH, gắn trực tiếp với quyền lợi của người lao động. Mức độ độc lập của cấp tỉnh, huyện còn được thể hiện ở chỗ được giao cho những quyền hạn nhất định trong việc xây dựng các biện pháp quản lý, điều hành hoạt động thu, chi BHXH của cấp mình, chỉ chịu sự ràng buộc vào cấp trên ở những vấn đề có tính nguyên tắc, quy định, định hướng lớn để không ảnh hưởng mục tiêu chung. Cần tránh sự can thiệp quá sâu của cấp trên vào các hoạt động, điều hành của cấp dưới.
Bốn là, nguyên tắc rõ ràng, minh bạch trong phân cấp quản lý thu, chi BHXH.
Nguyên tắc này đòi hỏi phải phân định cụ thể việc khai thác mở rộng đối tượng quản lý nguồn thu BHXH và thực hiện nhiệm vụ chi BHXH của từng cấp; làm rõ nguồn thu BHXH và chi BHXH nào thuộc thẩm quyền quản lý toàn diện của cấp Trung ương, nguồn thu và nhiệm vụ chi nào giao cho cấp ở địa phương quản lý và tổ chức thực hiện. Từ đó làm rõ thẩm quyền, trách nhiệm của từng cấp, tạo điều kiện để các cấp chủ động thực hiện nhiệm vụ trên địa bàn, hạn chế tình trạng trông chờ, ỷ lại cấp trên.
Việc phân cấp không rõ ràng sẽ dẫn đến trùng lắp, chồng chéo trong thực hiện nhiệm vụ thu chi BHXH, gây thất thoát, lãng phí.
Năm là, nguyên tắc công bằng.
Phân cấp quản lý BHXH phải tuân thủ nguyên tắc công bằng, hạn chế đến mức thấp nhất sự chênh lệch về mức hưởng thụ của cán bộ, công chức và những người làm công tác chi trả ở các Ban đại diện chi trả xã, phường giữa các vùng của lãnh thổ bởi lẽ có những địa phương, vùng có điều kiện kinh tế xã hội phát triển thì khả năng khai thác nguồn thu sẽ lớn. Ngược lại ở những vùng, địa phương còn nhiều khó khăn thì việc khai thác nguồn thu sẽ rất kém. Hoặc ở những địa phương có số đối tượng hưởng BHXH lớn, kinh phí chi trả nhiều thì mức lệ phí chi trả sẽ lớn, ngược lại những địa phương có đối tượng ít thì mức lệ phí
.....