Bảo đảm tiền vay bằng giấy tờ có giá tại các tổ chức tín dụng - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn - 2

4. Phạm vi của việc nghiên cứu đề tài

Luận văn tập trung nghiên cứu pháp luật hiện hành điều chỉnh về bảo đảm tiền vay bằng GTCG tại TCTD ở Việt Nam đặt trong mối quan hệ với pháp luật về GTCG và các văn bản pháp lý chuyên ngành tài chính ngân hàng điều chỉnh hoạt động cho vay của TCTD. Từ đó, làm nổi bật các đặc trưng của bảo đảm tiền vay bằng GTCG tại TCTD so với các biện pháp bảo đảm dân sự khác và so với các biện pháp bảo đảm tiền vay khác. Đồng thời nghiên cứu thực tiễn áp dụng pháp luật về vấn đề này, để phát hiện các tồn tại, bất cập và kiến nghị phương hướng khắc phục, hoàn thiện.

5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu đề tài

Với mục đích triển khai những nội dung cơ bản của luận văn, tác giả đã vận dụng tổng hợp các phương pháp duy vật biện chứng, duy vật lịch sử và các phương pháp cụ thể như phân tích, tổng hợp, giải thích, so sánh … để lý giải những vấn đề đặt ra.

6. Những đóng góp mới của đề tài

Là công trình nghiên cứu pháp luật về bảo đảm tiền vay bằng GTCG tại TCTD ở Việt Nam và thực tiễn áp dụng pháp luật một cách cụ thể, luận văn có những đóng góp mới là:

- Trình bày, phân tích một cách khoa học và có hệ thống các vấn đề lý luận cơ bản của pháp luật về bảo đảm tiền vay bằng GTCG tại TCTD.

- Nêu và phân tích nguyên nhân, đánh giá thực trạng pháp luật và thực tiễn áp dụng pháp luật về bảo đảm tiền vay bằng GTCG tại TCTD ở Việt Nam; tìm hiểu và phân tích các tranh chấp về bảo đảm tiền vay bằng GTCG thường phát sinh trong hoạt động cho vay có bảo đảm bằng GTCG tại TCTD ở Việt Nam.

- Luận văn kiến nghị, đề xuất các phương hướng, giải pháp hoàn thiện pháp luật về bảo đảm tiền vay bằng GTCG tại TCTD ở Việt Nam nhằm góp phần xây dựng hệ thống pháp luật hoàn chỉnh, mang tính khả thi.

7. Kết cấu của luận văn

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 107 trang tài liệu này.

Ngoài Phần mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm 3 chương:

Chương 1: Những vấn đề lý luận của pháp luật về bảo đảm tiền vay bằng giấy tờ có giá tại tổ chức tín dụng.

Bảo đảm tiền vay bằng giấy tờ có giá tại các tổ chức tín dụng - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn - 2

Chương 2: Thực trạng pháp luật về bảo đảm tiền vay bằng giấy tờ có giá tại tổ chức tín dụng ở Việt Nam.

Chương 3: Một số phương hướng và các giải pháp hoàn thiện pháp luật về bảo đảm tiền vay bằng giấy tờ có giá tại tổ chức tín dụng ở Việt Nam.

Chương 1‌‌

NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CỦA PHÁP LUẬT VỀ BẢO ĐẢM TIỀN VAY BẰNG GIẤY TỜ CÓ GIÁ TẠI TỔ CHỨC TÍN DỤNG


1.1. Khái niệm, đặc điểm, phân loại giấy tờ có giá

1.1.1. Khái niệm giấy tờ có giá

Dưới góc độ luật học, khi nghiên cứu một vấn đề, chúng ta không thể bỏ qua các khái niệm pháp lý liên quan đến vấn đề đó. Vì vậy, một khi đã đề cập đến giao dịch đảm bảo tiền vay bằng GTCG, đương nhiên phải đề cập đến khái niệm về GTCG.

"Giấy tờ có giá" là thuật ngữ khá quen thuộc thường được sử dụng trong hoạt động huy động vốn và cho vay của các TCTD. Ngoài ra, một số thuật ngữ khác cũng thường xuyên được đề cập đến như cổ phiếu, trái phiếu, kỳ phiếu, tín phiếu, hối phiếu, chứng khoán, công cụ chuyển nhượng …. Vậy, GTCG là gì? Cổ phiếu, trái phiếu, kỳ phiếu, tín phiếu, chứng khoán, CCCN có phải là GTCG hay không?

Theo nghĩa chung nhất, "giấy tờ có giá nói chung được hiểu là chứng chỉ hoặc bút toán ghi sổ, trong đó xác nhận quyền tài sản của một chủ thể nhất định (tổ chức, cá nhân) xét trong mối quan hệ pháp lý với các chủ thể khác" [32].

Trên phương diện kinh tế, GTCG là một loại hàng hóa được mua bán, trao đổi trên thị trường tiền tệ, gồm rất nhiều loại như trái phiếu, tín phiếu, công trái do Chính phủ phát hành; cổ phiếu, kỳ phiếu, trái phiếu, tín phiếu và các GTCG khác do TCTD và các doanh nghiệp khác phát hành; …

Xét trên phương diện pháp lý, giấy tờ có giá được quy định tại nhiều văn bản pháp luật khác nhau.

Trên thế giới, văn bản đầu tiên quy định về GTCG ở dạng hối phiếu ra đời vào năm 1603 đó là Pháp lệnh Humburg. Đây là pháp lệnh được ban hành trên cơ sở tập quán thương mại về phát hành và sử dụng thương phiếu. Năm 1874, Pháp lệnh chung về hối phiếu Đức đã được tập hợp hóa từ 55 pháp lệnh hối phiếu của từng bang riêng rẽ. Đến năm 1882, Vương Quốc Anh ban hành Luật hối phiếu (Bill of Exchange Act 1882). Sau năm 1930, năm ký kết công ước Giơ-ne-vơ về hối phiếu một loạt quốc gia đã lần lượt ban hành luật hối phiếu của quốc gia mình cho dù có gia nhập hay không gia nhập Công ước 1930 về hối phiếu. Đến năm 1988, Hiệp ước thống nhất về hối phiếu đòi nợ và hối phiếu nhận nợ quốc tế đã được Ủy ban Luật thương mại Liên hợp quốc (gọi tắt là UNCITRAL) soạn thảo và được Đại Hội đồng Liên Hợp quốc thông qua trong khóa họp toàn thể lần thứ 43 ngày 9/12/1988.

Ở Việt Nam, khái niệm GTCG hiện đang được đề cập tại nhiều văn bản pháp luật thực định.

Bộ luật Dân sự Việt Nam quy định về GTCG với tư cách là một loại tài sản dùng trong các giao dịch dân sự. Theo đó, Điều 172 BLDS năm 1995 trước đây quy định: "Tài sản bao gồm vật có thực, tiền, giấy tờ trị giá được bằng tiền và các quyền tài sản", Điều 163 BLDS năm 2005 quy định: "Tài sản bao gồm vật, tiền, giấy tờ có giá và các quyền tài sản" [19, Điều 163].

Theo Khoản 9 Điều 3 Nghị định số 163 thì: "giấy tờ có giá bao gồm cổ phiếu, trái phiếu, hối phiếu, kỳ phiếu, chứng chỉ tiền gửi, séc, giấy tờ có giá khác theo quy định của pháp luật, trị giá được thành tiền và được phép giao dịch" [3, Khoản 9 Điều 3].

Như vậy, khái niệm GTCG được quy định dưới dạng liệt kê các loại giấy tờ được coi là GTCG, được dùng làm tài sản bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự. Giấy tờ có giá là tên gọi chung của các loại giấy tờ như cổ phiếu, trái phiếu, hối phiếu, kỳ phiếu, chứng chỉ tiền gửi, séc,... và những loại giấy tờ khác thỏa mãn hai điều kiện: trị giá được thành tiền và được phép giao dịch.

Luật NHNN với tư cách là đạo luật quy định về tổ chức, hoạt động của NHNN đã định nghĩa về GTCG dưới góc độ là một loại giấy tờ do các tổ chức phát hành để huy động vốn và được NHNN chấp nhận như một công cụ để chiết khấu, hoặc chấp nhận như một loại tài sản bảo đảm trong trường hợp NHNN cho các TCTD vay vốn hoặc NHNN mua bán GTCG đó thông qua nghiệp vụ thị trường mở theo đó giấy tờ có giá là bằng chứng xác nhận nghĩa vụ trả nợ giữa tổ chức phát hành giấy tờ có giá với người sở hữu giấy tờ có giá trong một thời hạn nhất định, điều kiện trả lãi và các điều kiện khác (khoản 8 Điều 6).

Trong trường hợp các TDTD phát hành GTCG để huy động vốn, khái niệm GTCG được đề cập tại Quy chế phát hành GTCG. Theo Khoản 1 Điều 4 Quy chế này thì: "Giấy tờ có giá là chứng nhận của tổ chức tín dụng phát hành để huy động vốn trong đó xác nhận nghĩa vụ trả nợ một khoản tiền trong một thời hạn nhất định, điều kiện trả lãi và các điều khoản cam kết khác giữa tổ chức tín dụng và người mua" [12, Khoản 1 Điều 4].

Cũng quy định về hoạt động huy động vốn của các tổ chức phát hành, Luật Chứng khoán đã xác lập khái niệm "chứng khoán". Theo đó, chứng khoán là bằng chứng xác nhận quyền và lợi ích hợp pháp của người sở hữu đối với tài sản hoặc phần vốn của tổ chức phát hành. Chứng khoán được thể hiện dưới hình thức chứng chỉ, bút toán ghi sổ hoặc dữ liệu điện tử, bao gồm các loại sau đây: cổ phiếu, trái phiếu, chứng chỉ quỹ; quyền mua cổ phần, chứng quyền, quyền chọn mua, quyền chọn bán, hợp đồng tương lai, nhóm chứng khoán hoặc chỉ số chứng khoán; hợp đồng góp vốn đầu tư; các loại chứng khoán khác do Bộ Tài chính quy định. Từ khái niệm này cho thấy, Luật Chứng khoán chỉ làm rõ chứng khoán là gì, gồm những loại nào, còn việc nó có phải là một loại GTCG hay không thì pháp luật về chứng khoán còn bỏ ngỏ. Mặc dù, trong phần liệt kê các loại chứng khoán thì một số loại chứng khoán cũng thuộc diện được liệt kê là GTCG tại BLDS năm 2005, ví dụ như cổ phiếu, trái phiếu.

Trong lĩnh vực tố dụng dân sự, Tòa án nhân dân Tối cao cũng có hướng dẫn về cách nhận diện, xác định các loại GTCG. Theo hướng dẫn của Tòa án Nhân dân Tối cao thì GTCG bao gồm:

Hối phiếu đòi nợ, hối phiếu nhận nợ, séc, công cụ chuyển nhượng khác được quy định tại Điều 1 của Luật Các công cụ chuyển nhượng năm 2005; trái phiếu Chính phủ, trái phiếu công ty, kỳ phiếu, cổ phiếu được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 4 của Pháp lệnh Ngoại hối năm 2005; tín phiếu, hối phiếu, trái phiếu, công trái và công cụ khác làm phát sinh nghĩa vụ trả nợ được quy định tại điểm 16 Điều 3 của Luật Quản lý nợ công năm 2009; các loại chứng khoán (cổ phiếu, trái phiếu, chứng chỉ quỹ; quyền mua cổ phần, chứng quyền, quyền chọn mua, quyền chọn bán, hợp đồng tương lai, nhóm chứng khoán hoặc chỉ số chứng khoán; hợp đồng góp vốn đầu tư; các loại chứng khoán khác do Bộ Tài chính quy định) được quy định tại khoản 1 Điều 6 của Luật Chứng khoán năm 2006 (đã được sửa đổi, bổ sung một số điều năm 2010); trái phiếu doanh nghiệp được quy định tại Điều 2 của Nghị định số 52/2006/NĐ-CP ngày 19 tháng 5 năm 2006 của Chính phủ về phát hành trái phiếu doanh nghiệp [30].

Từ những liệt kê và phân tích nêu trên cho thấy, hiện chưa có một khái niệm "chuẩn", thống nhất về GTCG. Khái niệm về GTCG đang được quy định tại nhiều văn bản pháp luật, được xác lập theo nhiều cách khác nhau, theo nhiều cách tiếp cận khác nhau tùy thuộc vào mục đích, phạm vi điều chỉnh và đối tượng áp dụng của văn bản pháp luật đó đang hướng tới.

Nói chung, cho dù dưới góc độ nào, việc nhận thức chính xác khái niệm về GTCG đóng vai trò hết sức quan trọng trong việc thiết lập và thực hiện các giao dịch liên quan đến GTCG, cũng như trong việc xây dựng quy định pháp luật liên quan đến GTCG. Khái niệm về giấy tờ có giá phải thể hiện

được những đặc điểm cơ bản của nó. Theo tác giả, giấy tờ có giá là chứng chỉ hoặc bút toán ghi sổ xác nhận quyền tài sản của một chủ thể nhất định xét trong mối quan hệ pháp lý với chủ thể khác, trị giá được bằng tiền và có thể chuyển giao trong giao dịch dân sự.

1.1.2. Đặc điểm của giấy tờ có giá

Như đã phân tích ở trên, GTCG nhìn dưới các góc độ, phương diện khác nhau sẽ có các định nghĩa khác nhau. Nhưng, cho dù được định nghĩa như thế nào, GTCG vẫn phải mang những đặc điểm đặc trưng, những thuộc tính cơ bản để nhận biết đó là GTCG và để phân biệt GTCG với các loại tài sản khác.

Mặc dù, BLDS năm 2005 không hề có điều khoản nào quy định rõ GTCG có những đặc điểm nào đó để phân biệt với các loại tài sản khác cũng như đối với các loại giấy tờ khác. Tuy nhiên, từ việc kết nối các định nghĩa về GTCG tại các văn bản pháp luật thực định, cũng như từ việc phân tích ở phương diện ngôn ngữ của thuật ngữ GTCG có thể thấy rằng GTCG có ba đặc điểm, thuộc tính cơ bản là: (1) Xác nhận quyền tài sản của một chủ thể xác định; (2) Trị giá được bằng tiền; và (3) Có thể chuyển giao quyền sở hữu cho chủ thể khác trong giao dịch dân sự.

Thứ nhất, giấy tờ có giá xác nhận quyền tài sản của một chủ thể xác định.

Xét về mặt ngôn ngữ, bản thân thuật ngữ GTCG ngay khi được "xướng tên" đã tự nó "toát lên" những đặc điểm riêng biệt để nhận biết, trước tiên nó là một loại giấy tờ có giá trị và thứ đến giá trị của nó có thể trị giá được bằng tiền.

Giấy tờ có giá là tài sản và bản thân nó là bằng chứng xác nhận quyền tài sản của một chủ thể xác định. Theo Điều 181 BLDS năm 2005 thì quyền tài sản là quyền trị giá được bằng tiền và có thể chuyển giao trong giao dịch dân sự. Đặc điểm này của GTCG được thể hiện rất rõ trong quy định tại các

văn bản pháp luật thực định như Luật NHNN, Quy chế phát hành GTCG, Luật CCCCN, Luật Chứng khoán. Tuy nhiên, việc xác nhận quyền tài sản của người sở hữu các loại GTCG khác nhau sẽ có những nét đặc trưng riêng.

Trong phạm vi hoạt động của NHNN và các TCTD, GTCG được quy định dựa trên góc độ đây là loại giấy tờ mà các tổ chức phát hành để huy động vốn. Cụ thể, theo Luật NHNN thì: "Giấy tờ có giá là bằng chứng xác nhận nghĩa vụ trả nợ giữa tổ chức phát hành giấy tờ có giá với người sở hữu giấy tờ có giá trong một thời hạn nhất định, điều kiện trả lãi và các điều kiện khác" [30, khoản 8 Điều 6].

Tương tự như Luật NHNN, Khoản 1 Điều 4 Quy chế phát hành GTCG quy định giấy tờ có giá là chứng nhận của tổ chức tín dụng phát hành để huy động vốn trong đó xác nhận nghĩa vụ trả nợ một khoản tiền trong một thời hạn nhất định, điều kiện trả lãi và các điều khoản cam kết khác giữa tổ chức tín dụng và người mua.

Theo các quy định trên đây, thì GTCG là bằng chứng xác nhận nghĩa vụ trả nợ một khoản tiền trong một thời hạn nhất định, điều kiện trả lãi và các điều khoản cam kết khác của tổ chức phát hành GTCG (trong đó có TCTD) đối với người sở hữu, người mua GTCG. Điều này cũng đồng nghĩa với việc GTCG xác nhận quyền chủ nợ của người sở hữu, người mua GTCG. Với tư cách là chủ nợ, người sở hữu GTCG có quyền yêu cầu tổ chức phát hành trả nợ một khoản tiền bằng mệnh giá ghi trên GTCG kèm theo trả các khoản lãi vào ngày đáo hạn GTCG.

Luật Các công cụ chuyển nhượng ghi nhận đặc điểm của GTCG về việc xác nhận quyền tài sản của một chủ thể xác định dưới góc độ khác với Luật NHNN và Luật Các TCTD. Theo Luật CCCCN thì "công cụ chuyển nhượng là giấy tờ có giá ghi nhận lệnh thanh toán hoặc cam kết thanh toán không điều kiện một số tiền xác định vào một thời điểm nhất định" [21, khoản 1 Điều 4].

Xem tất cả 107 trang.

Ngày đăng: 01/09/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí