TTHS bao gồm những quy định của luật hình sự, luật TTHS nhằm bảo đảm quyền con người, bao gồm các nội dung cơ bản sau đây:
+ Quy định về tội phạm và hình phạt với việc bảo đảm quyền con người trong hoạt động bắt, tạm giữ, tạm giam.
+ Các nguyên tắc cơ bản của TTHS nhằm bảo đảm quyền con người trong hoạt động bắt, tạm giữ, tạm giam.
+ Trình tự giải quyết vụ án hình sự nhằm bảo đảm quyền con người trong hoạt động bắt, tạm giữ, tạm giam.
+ Quyền của người bị bắt, tạm giữ, tạm giam.
+ Quyền hạn, nghĩa vụ và trách nhiệm của người có thẩm quyền bắt, tạm giữ, tạm giam.
Có thể hiểu theo phạm vi này, bởi vì luật hình sự, luật TTHS có mối quan hệ giữa nội dung và hình thức. Luật hình sự quy định về tội phạm, hình phạt, Luật TTHS quy định về trình tự xác định tội phạm, trình tự áp dụng hình phạt, mức hình phạt, thi hành hình phạt. Quy định của luật hình sự sẽ không thể áp dụng được nếu không có quy định của luật TTHS và ngược lại. Nghiên cứu những nội dung cơ bản thể hiện rò nét nhất việc bảo đảm quyền con người trong TTHS theo phạm vi hẹp đòi hỏi phải tìm hiểu luật hình sự, luật TTHS.
Theo quy định tại điều 1 BLHS năm 1999, luật hình sự có hai nhiệm vụ chính là bảo vệ và giáo dục. Nhằm thực hiện các nhiệm vụ này, quy định của luật hình sự về tội phạm phải chính xác cụ thể, hệ thống hình phạt phải đa dạng, phù hợp với tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội.
Mục đích của luật TTHS về bản chất nhằm xác định sự thật khách quan của vụ án hình sự, phòng ngừa ngăn chặn tội phạm và giáo dục ý thức pháp luật. Để thực hiện được mục đích đó, nội dung các văn bản quy phạm pháp luật với tính chất là nguồn của luật TTHS phải không được trái với các nguyên tắc
cơ bản của luật TTHS nhằm bảo đảm quyền con người. Bên cạnh đó, các văn bản pháp luật này quy định cụ thể rò ràng về trình tự, thủ tục giải quyết vụ án hình sự, xác định rò quyền, nghĩa vụ của chủ thể TTHS. Các quy định của luật TTHS cũng không được mâu thuẫn với nhau, dễ thực hiện để thông qua đó mọi cá nhân đều có thể sử dụng pháp luật bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của mình. Tóm lại, hệ thống pháp luật nhằm bảo đảm quyền con người trong TTHS phải có các thuộc tính là toàn diện, đồng bộ, khả thi và minh bạch.
Có thể bạn quan tâm!
- Bảo đảm quyền con người trong hoạt động bắt, tạm giữ, tạm giam theo luật Tố tụng hình sự Việt Nam trên cơ sở số liệu thực tiễn địa bàn tỉnh Đắk Lắk - 2
- Đặc Điểm Bảo Đảm Quyền Con Người Trong Hoạt Động Bắt, Tạm Giữ, Tạm Giam Theo Luật Tths Việt Nam
- Các Yếu Tố Bảo Đảm Quyền Con Người Trong Hoạt Động Bắt, Tạm Giữ, Tạm Giam Theo Luật Tths Việt Nam
- Bảo Đảm Quyền Con Người Trong Hoạt Động Bắt, Tạm Giữ, Tạm Giam Theo Pháp Luật Quốc Tế Và Luật Tths Của Một Số Nước Trên Thế Giới Và Những Giá
- Những Giá Trị Bảo Đảm Quyền Con Người Trong Hoạt Động Bắt, Tạm Giữ, Tạm Giam Theo Pháp Luật Quốc Tế Và Luật Tths Của Một Số Nước Trên Thế
- Thực Trạng Bảo Đảm Quyền Con Người Trong Hoạt Động Bắt, Tạm Giữ, Tạm Giam Theo Luật Tths Việt Nam Trên Địa Bàn Tỉnh Đắk Lắk
Xem toàn bộ 120 trang tài liệu này.
Pháp luật bảo đảm quyền con người trong hoạt động bắt, tạm giữ, tạm giam cũng phải thường xuyên hệ thống hoá, pháp điển hoá nhằm sửa đổi, bổ sung các văn bản pháp luật chưa phù hợp với thực tiễn, loại bỏ những văn bản pháp luật đã lạc hậu. Từ đó, kịp thời ban hành các văn bản pháp luật mới điều chỉnh những vấn đề bức xúc liên quan tới quyền con người trong hoạt động bắt, tạm giữ, tạm giam.
Có thể nói, pháp luật bảo đảm quyền con người trong TTHS là yếu tố đầu tiên rất quan trọng để các bảo đảm quyền con người khác được thực hiện bởi vì không có pháp luật thì không có quyền.
- Yếu tố tổ chức hoạt động của các cơ quan, tổ chức liên quan tới hoạt động bắt, tạm giữ, tạm giam
Hoạt động của bộ máy Nhà nước có liên quan trực tiếp tới các quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, thực chất đây là hoạt động bảo vệ quyền con người. Chính vì vậy, để quyền con người trong hoạt động bắt, tạm giữ, tạm giam được thực hiện thì cần phải đổi mới bộ máy Nhà nước nói chung trong đó có các cơ quan, tổ chức tham gia hoạt động bắt, tạm giữ, tạm giam.
Xét về mặt lý luận, mọi cơ quan tổ chức có liên quan tới vụ án hình sự đều có trách nhiệm giải quyết vụ án hình sự. Tuy nhiên, trên thực tế hoạt động TTHS, trách nhiệm giải quyết vụ án hình sự chủ yếu thuộc về các cơ quan tiến hành TTHS gồm CQĐT, VKS, TA và các cơ quan tổ chức khác như tổ chức luật sư, tổ chức giám định.
Thứ nhất, đối với các cơ quan tiến hành TTHS:
Cơ quan điều tra: Điều tra là khâu đột phá, quyết định sự thành bại của toàn bộ tiến trình TTHS, CQĐT có nhiệm vụ áp dụng mọi quy định biện pháp do luật TTHS quy định nhằm xác định sự thật khách quan của vụ án hình sự, bảo vệ quyền con người. Các biện pháp do CQĐT thực hiện theo quy định pháp luật rất đa dạng nhưng có điểm chung là đều ảnh hưởng trực tiếp tới các quyền con người. Trên thực tế, CQĐT còn được áp dụng các biện pháp nghiệp vụ của riêng ngành mình nhằm giải quyết vụ án hình sự nên khả năng vi phạm quyền con người dễ xảy ra. Vì vậy, tổ chức hoạt động của CQĐT phải phù hợp với chức năng nhiệm vụ được quy định, bảo đảm tính cơ động linh hoạt, đội ngũ điều tra viên phải có phẩm chất chính trị vững vàng, trình độ chuyên môn đáp ứng yêu cầu được giao.
Viện kiểm sát: VKS có chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp và thực hành quyền công tố trong TTHS. Trong TTHS, VKS có trách nhiệm áp dụng mọi biện pháp do luật định để loại trừ sự vi phạm pháp luật của bất cứ cá nhân, tổ chức nào. VKS cũng đại diện cho Nhà nước thực hiện quyền buộc tội người bị tình nghi theo quy định của luật TTHS. Hoạt động của VKS chính là việc thực hiện quyền con người.
Đổi mới tổ chức, hoạt động của VKS được thực hiện theo nguyên tắc tập trung thống nhất trong ngành, thực hiện tốt chế độ giám sát, báo cáo giữa VKS cấp trên với VKS cấp dưới. Yêu cầu cụ thể là tổ chức, hoạt động của VKS phải sát hợp với nhiệm vụ, chức năng của cơ quan này, các Kiểm sát viên cũng phải đạt những tiêu chuẩn về chính trị, chuyên môn. Ở Việt Nam hiện nay, đổi mới tổ chức, hoạt động của VKS được thực hiện nhằm tạo điều kiện cho VKS thực hiện tốt việc kiểm sát hoạt động tư pháp, tập trung vào chức năng thực hành quyền công tố.
Tòa án: TA là cơ quan xét xử, có nhiệm vụ xét xử các vụ án theo quy
định pháp luật, Trong bất kỳ hệ thống TTHS nào, TA cũng đóng vai trò trung tâm của tố tụng, có quyền nhân danh Nhà nước đưa ra các quyết định tố tụng để giải quyết vụ án hình sự. Các quyết định này đụng chạm đến các quyền, lợi ích của những con người cụ thể. Do vậy, hoàn thiện TA về mặt cơ cấu tổ chức là một yêu cầu tất yếu khách quan và thường trực. Để thực hiện tốt vấn đề này, cần quán triệt các nguyên tắc của TTHS, đẩy mạnh hoạt động hướng dẫn của TA tối cao về đường lối xét xử, chế độ báo cáo của Chánh án TA cấp dưới đối với cấp trên. Trên cơ sở đó, đổi mới tổ chức hoạt động của TA phù hợp với chức năng, nhiệm vụ được giao, nâng cao chất lượng, trình độ đội ngũ cán bộ về mọi mặt.
Thứ hai, đối với các cơ quan, tổ chức khác tham gia vào TTHS:
Tổ chức luật sư, tổ chức giám định trong TTHS: TTHS mang tính chất xã hội sâu sắc, nó không chỉ thể hiện chức năng bảo vệ mà còn bộc lộ chức năng xã hội của Nhà nước. Chính vì vậy, đấu tranh chống tội phạm, bảo vệ quyền con người là trách nhiệm chung của tất cả các cơ quan Nhà nước, tổ chức, công dân, trong đó có tổ chức luật sư, tổ chức giám định. Điều này đặc biệt nổi bật rò ở các Nhà nước xác định con người là động lực, mục tiêu cho hoạt động của mình.
Trong TTHS, hoạt động của các tổ chức này có vai trò quan trọng. TTHS là một lĩnh vực rộng lớn, phức tạp gắn liền với đời sống vật chất, tinh thần của con người. Để xác định đúng quyền, nghĩa vụ của các chủ thể TTHS thì phải có sự phối hợp của các tổ chức này. Mặt khác, tổ chức luật sư, tổ chức giám định bao gồm các cá nhân cụ thể nên hoạt động của loại tổ chức này cũng tác động tới nhận thức về quyền con người của họ, thông qua đó đẩy mạnh công tác tuyên truyền giáo dục về quyền con người. Từ những lý do trên, đổi mới tổ chức, hoạt động của các tổ chức trên là một yếu tố quan trọng của bảo đảm quyền con người trong TTHS. Nội dung đổi mới phải gắn với
việc xác định rò chức năng, nhiệm vụ thẩm quyền của các tổ chức này, xác định cụ thể tiêu chuẩn chức danh, quyền và nghĩa vụ của các thành viên tổ chức khi thực hiện nhiệm vụ, đặc biệt là không ngừng nâng cao phẩm chất chính trị, đạo đức cho họ.
- Yếu tố cơ chế phối hợp trong hoạt động bắt, tạm giữ, tạm giam
TTHS là một quá trình liên tục bao gồm nhiều giai đoạn khác nhau, Trong đó, giai đoạn trước là tiền đề, cơ sở của giai đoạn sau, giai đoạn sau kiểm tra lại tính đúng đắn của giai đoạn trước. Để bảo đảm sự thống nhất của quá trình này, luật TTHS xác định rò địa vị pháp lý, tổ chức nguyên tắc hoạt động của các cơ quan, tổ chức tham gia TTHS. Mặt khác, quá trình TTHS cũng không thể diễn ra đúng pháp luật, đạt hiệu quả cao, nếu các chủ thể này không phối hợp với nhau. Chính vì vậy, bảo đảm sự phối hợp giữa các cơ quan tổ chức tham gia vào hoạt động bắt, tạm giữ, tạm giam là một yêu cầu quan trọng của TTHS, thông qua đó quyền con người được thực hiện.
Đặc trưng nổi bật của cơ chế phối hợp này là sự phối hợp, chế ước lẫn nhau. Trong đó, sự phối hợp là cơ sở để giải quyết các sự việc thuận lợi, đúng pháp luật. Sự chế ước được đặt ra nhằm giúp các chủ thể này phát hiện ra những thiếu sót, vi phạm pháp luật của nhau, yêu cầu chủ thể vi phạm tự khắc phục hoặc yêu cầu cơ quan Nhà nước có thẩm quyền giải quyết. Thông qua đó, hạn chế được sự lạm quyền, lộng quyền trong quá trình giải quyết vụ án hình sự. Cơ chế phối hợp giữa các cơ quan, tổ chức tham gia TTHS được thể hiện thông qua các mối quan hệ đa dạng nhiều chiều giữa các chủ thể này dựa trên cơ sở quy định của luật TTHS, thực tế hoạt động giải quyết vụ án hình sự. Các mối quan hệ đó bao gồm:
+ Mối quan hệ nội tại giữa các cơ quan tổ chức tham gia TTHS, chẳng hạn như mối quan hệ giữa CQĐT cùng ngạch, khác ngạch với nhau, quan hệ giữa đoàn luật sư với văn phòng luật sư, mối quan hệ giữa các tổ chức giám định, mối quan hệ giữa các cơ quan tiến hành TTHS.
+ Mối quan hệ giữa các cơ quan tiến hành TTHS với tổ chức luật sư, tổ chức giám định.
+ Mối quan hệ giữa các cơ quan tiến hành TTHS, tổ chức luật sư, tổ chức giám định với các cơ quan khác của Nhà nước, tổ chức kinh tế xã hội tham gia vào quá trình giải quyết vụ án hình sự.
Hoàn thiện cơ chế phối hợp các chủ thể này được tiến hành thông qua việc xác định về mặt pháp lý các mối quan hệ. Trong đó, xác định rò quyền và nghĩa vụ của các chủ thể. Đây chính là cơ sở để xác định trách nhiệm của từng cơ quan, tổ chức, cá nhân tham gia vào hoạt động bắt, tạm giữ, tạm giam, hạn chế sự xâm hại tới quyền con người trong hoạt động bắt, tạm giữ, tạm giam.
- Yếu tố giám sát, giải quyết khiếu nại, tố cáo trong hoạt động bắt, tạm giữ, tạm giam
Bảo đảm quyền con người nói chung, quyền con người trong hoạt động bắt, tạm giữ, tạm giam nói riêng là trách nhiệm của mọi cơ quan Nhà nước, tổ chức và cá nhân. Trong hoạt động bắt, tạm giữ, tạm giam, quyền con người luôn có nguy cơ bị xâm hại rất cao vì các cơ quan Nhà nước tham gia vào hoạt động này trực tiếp ảnh hưởng tới các quyền, nghĩa vụ cơ bản của công dân được pháp luật quy định. Có thể nói, bảo đảm quyền con người trong lĩnh vực này là hoạt động rất phức tạp nhạy cảm. Chính vì vậy, bảo đảm cơ chế giám sát, giải quyết khiếu nại tố cáo trong TTHS, là một yêu cầu thường xuyên, cấp bách nhằm hiện thực hoá quyền con người. Suy cho cùng, sự vận hành của cơ chế này nhằm hạn chế sự lạm dụng quyền lực của các cơ quan tư pháp trong thực thi quyền lực.
Để thực hiện tốt bảo đảm này, cần xác định rò các vấn đề cơ bản như cơ chế về chủ thể, phương thức thực hiện, các biện pháp bảo đảm cho hoạt động này có hiệu lực trong thực tiễn cuộc sống.
Hoạt động giám sát, giải quyết khiếu nại tố cáo cũng chỉ được thực hiện trên thực tế khi xác định rò quyền, nghĩa vụ, trách nhiệm của các chủ thể có liên quan. Việc xác định thực hiện theo hướng phân biệt rò thẩm quyền, trách nhiệm của cơ quan với cá nhân của cơ quan đó, của thủ trưởng với cán bộ thực hiện, trách nhiệm của chủ thể có quyền yêu cầu và chủ thể phải giải quyết các yêu cầu đó.
Hoạt động giám sát, giải quyết khiếu nại tố cáo có sự khác nhau về chủ thể, phương thức thực hiện, các quyền nghĩa vụ cụ thể nhưng có những điểm chung nhất định về cơ chế thực hiện. Mục đích chung nhất của các hoạt động này là nhằm giải quyết vụ án hình sự được khách quan, toàn diện, đầy đủ, hay nói cách khác là nhằm bảo đảm quyền con người trong TTHS.
- Yếu tố xử lý vi phạm quyền con người trong hoạt động bắt, tạm giữ, tạm giam
Bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của công dân trong hoạt động bắt, tạm giữ, tạm giam là bảo đảm quyền con người. Để bảo đảm quyền con người trong TTHS Nhà nước phải ban hành một hệ thống pháp luật hoàn chỉnh. Chính vì vậy, sự vi phạm pháp luật nhằm bảo đảm quyền con người trong hoạt động bắt, tạm giữ, tạm giam chính là sự vi phạm quyền con người.
Vi phạm quyền con người trong hoạt động bắt, tạm giữ, tạm giam bao gồm nhiều loại khác nhau. Có loại từ phía các cơ quan tổ chức tiến hành TTHS, do nhân viên ở các cơ quan tổ chức đó thực hiện. Những vi phạm loại này nảy sinh do những khuyết tật của các cơ quan tổ chức đó, nó đặc biệt phát triển khi cơ chế tổ chức, trách nhiệm pháp lý của các cơ quan tổ chức cũng như của nhân viên không được quy định rò ràng. Điều đó dẫn tới sự vi phạm cố ý hoặc vô ý tới quyền con người.
Vi phạm quyền con người trong hoạt động bắt, tạm giữ, tạm giam cũng có thể nảy sinh trong nội bộ dân cư, có cơ sở khách quan từ những mâu thuẫn
lợi ích. Loại vi phạm này cũng rất dễ xảy ra khi các bảo đảm quyền con người khác không có hiệu quả như: Hệ thống pháp luật yếu kém, tổ chức hoạt động của các cơ quan tổ chức tham gia TTHS còn chồng chéo…
Vi phạm quyền con người trong hoạt động bắt, tạm giữ, tạm giam có thể do nhiều nguyên nhân khách quan, chủ quan khác nhau. Thế nhưng, đã có vi phạm quyền con người thì phải xử lý nghiêm minh theo nguyên tắc công bằng, đúng pháp luật. Ý nghĩa của việc xử lý vi phạm quyền con người thể hiện ở chỗ: Nó bảo vệ được quyền con người của người bị vi phạm, giáo dục người vi phạm và những người khác biết tôn trọng quyền con người. Nói cách khác, đây chính là một cơ chế bảo đảm quyền con người.
- Yếu tố cơ sở vật chất kỹ thuật trong TTHS
TTHS là quá trình giải quyết vụ án hình sự phức tạp bao gồm nhiều giai đoạn khác nhau, nhằm xử lý các hành vi vi phạm pháp luật đến mức phải bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Hoạt động này chỉ được vận hành hiệu quả trên một nền cơ sở vật chất kỹ thuật đáp ứng yêu cầu đặt ra.
Những người có thẩm quyền trong khi giải quyết vụ án hình sự lại thường phải tiếp xúc với những cám dỗ vật chất bên ngoài. Do vậy, bảo đảm cơ sở vật chất, kỹ thuật trong TTHS là một yêu cầu khách quan. Thực hiện tốt điều này không chỉ có ý nghĩa làm cho cơ quan có thẩm quyền, người có thẩm quyền giải quyết vụ án hình sự thực hiện đúng chức năng nhiệm vụ được giao, giải quyết vụ án hình sự đúng pháp luật mà còn bảo đảm các quyền, nghĩa vụ cơ bản của công dân được pháp luật quy định.
Bắt, tạm giữ, tạm giam đòi hỏi một khối lượng cơ sở vật chất kỹ thuật rất lớn. Đó là trụ sở làm việc, công cụ phương tiện làm việc, trang thiết bị phục vụ cho công tác chuyên môn nghiệp vụ, tiền lương, tiền thù lao cho những người tham gia giải quyết vụ án hình sự. Bảo đảm cơ sở vật chất kỹ thuật trong TTHS có nghĩa là làm cho TTHS có đầy đủ điều kiện vật chất cần