Đặc Điểm Bảo Đảm Quyền Con Người Trong Hoạt Động Bắt, Tạm Giữ, Tạm Giam Theo Luật Tths Việt Nam

tố tụng có thẩm quyền của các CQĐT, VKS, TA hoặc những người có chức vụ trong các cơ quan khác được giao thực hiện một số hoạt động tố tụng, công dân tham gia vào việc bắt người phạm tội quả tang, bắt người theo lệnh truy nã. Tuỳ theo tính chất, đặc điểm của từng giai đoạn tố tụng, chức năng nhiệm vụ của các cơ quan, Luật TTHS qui định cho cơ quan đó được áp dụng tất cả hay một số các biện pháp ngăn chặn và trong phạm vi, giới hạn cũng như theo thủ tục của Luật TTHS.

Trong TTHS, người bị bắt, người bị tạm giữ, người bị tạm giam tuy họ là đối tượng bị buộc tội hoặc bị tình nghi phạm tội, họ có khả năng bị áp dụng trách nhiệm pháp lý nghiêm khắc nhất là trách nhiệm hình sự nhưng những quyền cơ bản, thiết thân nhất như: quyền được tôn trọng về nhân phẩm, quyền không bị tra tấn, đánh đập khi bị giam giữ, quyền được điều tra khách quan trong quá trình tố tụng, quyền được xét xử công bằng … vẫn phải được tôn trọng và bảo đảm. Tuy nhiên, so với những người khác quyền của nhóm người này bị hạn chế do họ bị tình nghi phạm tội và bị áp dụng biện pháp ngăn chặn bắt, tạm giữ, tạm giam.

Quyền con người của người bị bắt, người bị tạm giữ, người bị tạm giam trong TTHS được thể hiện cụ thể trong các quyền và nghĩa vụ tố tụng của họ được pháp luật TTHS ghi nhận và bảo đảm thực hiện.

Bảo đảm quyền con người trong hoạt động bắt, tạm giữ, tạm giam cũng là bảo đảm quyền con người trong TTHS và là một lĩnh vực có tính chất đặc thù của bảo đảm quyền con người nói chung. Bảo đảm quyền con người của người bị bắt, bị tạm giữ, bị tạm giam là việc ghi nhận các quyền con người và thực thi trong hoạt động bắt, tạm giữ, tạm giam. Thực hiện tốt việc bảo đảm quyền con người trong hoạt động bắt, tạm giữ, tạm giam là đóng góp có hiệu quả cho việc bảo đảm quyền con người trong TTHS và bảo đảm quyền con người nói chung.

Bảo đảm quyền con người trong hoạt động bắt, tạm giữ, tạm giam là nhiệm vụ của Nhà nước. Nhà nước trong điều kiện kinh tế - xã hội, pháp lý của mình cần có cơ chế phù hợp để ghi nhận và bảo đảm thực thi quyền con người. Các quy phạm pháp luật về quyền con người, quyền và nghĩa vụ tố tụng của người bị bắt, người bị tạm giữ, người bị tạm giam chưa phải là cơ sở để các quyền con người được thực thi mà cần phải có những bảo đảm ràng buộc pháp lý của Nhà nước.

Để bảo đảm quyền con người trong hoạt động bắt, tạm giữ, tạm giam bên cạnh việc củng cố và tăng cường các bảo đảm quyền con người nói chung, còn phải bảo đảm các yếu tố mang tính đặc trưng riêng như:

- Xây dựng được hệ thống quy phạm pháp luật điều chỉnh hoạt động bắt, tạm giữ, tạm giam trên cơ sở các tiêu chí quốc tế về quyền con người và phù hợp với yêu cầu bảo đảm quyền con người ở Việt Nam;

- Có các giải pháp thực thi có hiệu qủa các quyền con người được quy định trong hệ thống quy phạm pháp luật điều chỉnh hoạt động bắt, tạm giữ, tạm giam;

- Hình thành cơ chế giám sát bảo đảm quyền con người trong hoạt động bắt, tạm giữ, tạm giam.

Tóm lại, bảo đảm quyền con người trong hoạt động bắt, tạm giữ, tạm giam là việc tạo ra các điều kiện, yếu tố cần và đủ để quyền con người của người bị bắt, người bị tạm giữ, người bị tạm giam được ghi nhận và bảo đảm thực thi có hiệu quả trong quá trình áp dụng các biện pháp ngăn chặn bắt, tạm giữ, tạm giam.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 120 trang tài liệu này.

1.1.2. Đặc điểm bảo đảm quyền con người trong hoạt động bắt, tạm giữ, tạm giam theo luật TTHS Việt Nam

Bảo đảm quyền con người trong hoạt động bắt, tạm giữ, tạm giam là một bộ phận hợp thành bảo đảm quyền con người trong TTHS. Do đó,

Bảo đảm quyền con người trong hoạt động bắt, tạm giữ, tạm giam theo luật Tố tụng hình sự Việt Nam trên cơ sở số liệu thực tiễn địa bàn tỉnh Đắk Lắk - 3

quyền con người trong hoạt động bắt, tạm giữ, tạm giam có các đặc điểm của quyền con người trong TTHS. Quyền con người trong TTHS thực chất là những quyền của con người được thể hiện ở một lĩnh vực đặc thù là quá trình giải quyết vụ án hình sự, nó có những biểu hiện đặc thù về phạm vi, chủ thể, nội dung.

- Quyền con người trong hoạt động bắt, tạm giữ, tạm giam nảy sinh trong một lĩnh vực đặc thù là quá trình giải quyết vụ án hình sự

Thứ nhất: Quá trình giải quyết vụ án hình sự là hoạt động mang tính chất quyền lực Nhà nước. Hoạt động này được thực hiện bởi các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền. Đây là loại chủ thể bắt buộc trong TTHS.

Thứ hai: Quá trình giải quyết vụ án hình sự gắn liền với việc áp dụng luật hình sự. Thông thường, một người thực hiện hành vi vi phạm luật hình sự thì sẽ bị áp dụng các quy định của luật TTHS. Bởi vậy, luật TTHS là luật hình thức còn luật hình sự được xác định là luật nội dung.

Thứ ba: Quá trình giải quyết vụ án hình sự bao gồm các giai đoạn có mối quan hệ tác động qua lại lẫn nhau là khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án hình sự. Các giai đoạn này có những đặc thù riêng về chủ thể, nhiệm vụ, hành vi tố tụng, văn bản tố tụng, thời điểm bắt đầu và kết thúc. Theo lý luận chung, quá trình giải quyết vụ án hình sự bắt đầu từ khi xác định có dấu hiệu tội phạm, cơ quan có thẩm quyền ra quyết định khởi tố vụ án hình sự và kết thúc vào bất cứ giai đoạn nào của TTHS khi có căn cứ được pháp luật quy định. Chính trong những giai đoạn cụ thể này, quyền con người trong TTHS được thực hiện.

- Chủ thể của quyền con người trong hoạt động bắt, tạm giữ, tạm giam là người tiến hành TTHS, người tham gia TTHS và mọi cá nhân tham gia vào quá trình giải quyết vụ án hình sự

Chủ thể của quyền con người trong hoạt động bắt, tạm giữ, tạm

giam là những con người cụ thể với các địa vị pháp lý khác nhau trong TTHS, bao gồm:

Người tiến hành TTHS: Là những người được giao nhiệm vụ tiến hành giải quyết vụ án hình sự bao gồm Thủ trưởng, Phó thủ trưởng CQĐT, Điều tra viên, Viện trưởng, Phó viện trưởng VKS, Kiểm sát viên, Chánh án, Phó chánh án TA, Thẩm phán, Hội thẩm, Thư ký TA.

Người tham gia TTHS: Là những người tham gia tố tụng vì có quyền, nghĩa vụ pháp lý liên quan đến vụ án, như người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, hoặc họ là người tham gia tố tụng theo yêu cầu và nghĩa vụ của cơ quan tiến hành TTHS chẳng hạn như người làm chứng, người giám định…

Chủ thể của quyền con người trong hoạt động bắt, tạm giữ, tạm giam còn là những cá nhân khác như người làm chứng, người chứng kiến trong TTHS, cá nhân cung cấp tin báo, tố giác về tội phạm, tham gia hoạt động bắt, tạm giữ, tạm giam.

- Trong hoạt động bắt, tạm giữ, tạm giam, nội dung của quyền con người được pháp luật quy định cụ thể

Quyền con người trong hoạt động bắt, tạm giữ, tạm giam được ghi nhận rộng rãi trong hệ thống văn bản pháp luật như Bộ luật hình sự, Bộ luật TTHS, luật thi hành án hình sự, Quy chế tạm giữ, tạm giam… được biểu hiện ra thành các quyền và nghĩa vụ của người tiến hành TTHS, người tham gia TTHS và mọi cá nhân tham gia vào quá trình giải quyết vụ án hình sự. Trong từng giai đoạn TTHS, các chủ thể này có những quyền, nghĩa vụ khác nhau. Cơ chế bảo đảm quyền con người trong hoạt động bắt, tạm giữ, tạm giam cũng được cụ thể hoá trong pháp luật nhằm tạo cơ sở pháp lý để thực hiện.

- Thực hiện đúng pháp luật trong hoạt động bắt, tạm giữ, tạm giam đồng nghĩa với việc bảo đảm quyền con người

Thực hiện đúng pháp luật trong hoạt động bắt, tạm giữ, tạm giam là trách nhiệm của mọi chủ thể tham gia vào hoạt động bắt, tạm giữ, tạm giam.

Thực hiện đúng pháp luật trong hoạt động bắt, tạm giữ, tạm giam phải thể hiện được hai yêu cầu: Một mặt, hệ thống quy phạm pháp luật được áp dụng phải có chất lượng cao, nội dung pháp luật đó phải phản ánh được các quy luật khách quan của xã hội. Mặt khác, các chủ thể tham gia vào hoạt động bắt, tạm giữ, tạm giam theo TTHS phải thực hiện đúng, đầy đủ các quyền, nghĩa vụ pháp lý của mình theo quy định pháp luật.

Quyền con người trong hoạt động bắt, tạm giữ, tạm giam được bảo đảm bởi nhiều yếu tố khác nhau trong đó có pháp luật. Sự vi phạm pháp luật TTHS trong hoạt động bắt, tạm giữ, tạm giam là biểu hiện của sự vi phạm quyền con người. Do đó, thực hiện đúng pháp luật TTHS trong hoạt động bắt, tạm giữ, tạm giam là đồng nghĩa với việc bảo đảm quyền con người.

1.1.3. Vai trò bảo đảm quyền con người trong hoạt động bắt, tạm giữ, tạm giam theo luật TTHS Việt Nam

- Vai trò của việc bảo đảm quyền con người nói chung: Quyền con người, quyền công dân ở Việt Nam hiện nay vừa được coi là mục tiêu vừa được coi là động lực thúc đẩy sự phát triển của xã hội. Quyền con người ở Việt Nam được gắn liền với lợi ích của giai cấp, của dân tộc và lợi ích của toàn xã hội. Điều 14 Hiến pháp năm 2013 cam kết:

1. Ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các quyền con người, quyền công dân về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội được công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm theo Hiến pháp và pháp luật. 2. Quyền con người, quyền công dân chỉ có thể bị hạn chế theo quy định của luật trong trường hợp cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe của cộng đồng [49, tr.14].

Bởi vậy, bảo vệ thành quả của sự nghiệp cách mạng Việt Nam bao hàm cả bảo đảm quyền con người, quyền công dân Việt Nam. Vấn đề này được thể

hiện xuyên suốt trong toàn bộ sự nghiệp cách mạng Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam. Ngày nay, phạm trù này được thể hiện qua những nội dung cơ bản của công cuộc đổi mới ở Việt Nam là xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam, Nhà nước của dân, do dân và vì dân với mục tiêu mà cương lĩnh của Đảng đã đề ra “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”. Vì lẽ đó, Nhà nước CHXHCN Việt Nam thay mặt cho nhân dân thể chế ý chí và lợi ích của nhân dân thành pháp luật và tổ chức thực hiện pháp luật, để “Nhà nước thực sự quản lý xã hội bằng pháp luật” làm cho tất cả các cơ quan Nhà nước, tổ chức xã hội và mọi công dân phải tuân thủ pháp luật, mọi công dân đều sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật.

Bởi vậy, ở Việt Nam bảo vệ trật tự XHCN gắn liền với việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân và chỉ thông qua bảo vệ có hiệu quả trật tự XHCN thì quyền và lợi ích hợp pháp của công dân mới được thực hiện một cách đầy đủ. Đồng thời bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho công dân chính là cơ sở, là nội dung của bảo vệ trật tự xã hội. Đây là một chức năng quan trọng của cả hệ thống pháp luật Việt Nam. Để thực hiện chức năng bảo vệ trật tự XHCN, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, bên cạnh các qui phạm pháp luật có nội dung mang tính chất xây dựng pháp luật, còn có một hệ thống qui phạm pháp luật mang tính chất bảo vệ. Những qui phạm pháp luật này qui định những việc công dân không được thực hiện, nếu thực hiện là vi phạm pháp luật, là nguy hiểm cho xã hội. Đồng thời pháp luật qui định những công việc mà công dân buộc phải làm, nếu không thực hiện là vi phạm pháp luật là gây nguy hiểm cho xã hội. Để xử lý các hành vi vi phạm pháp luật, Nhà nước ta đã qui định một hệ thống các chế tài áp dụng đối với người có hành vi vi phạm, từ hành vi có mức độ nguy hiểm thấp nhất đến hành vi có mức độ nguy hiểm cao nhất. Hệ thống các chế tài này bao gồm các biện pháp tác động trực tiếp đối với người vi phạm pháp luật từ mức độ thấp đến mức độ cao, từ chế tài kỷ luật đến dân sự, hành chính và chế tài hình sự.

Việc qui định các biện pháp cưỡng chế như vậy nhằm buộc người có hành vi vi phạm pháp luật phải chịu trách nhiệm về hành vi của mình. Các biện pháp cưỡng chế này dù là nhẹ nhất cũng trực tiếp xâm phạm đến các quyền về tự do, tài sản, các quyền và lợi ích khác của người vi phạm pháp luật. Do vậy, việc qui định các trình tự, thủ tục xem xét, xử lý và áp dụng các hình thức, biện pháp cưỡng chế đòi hỏi hết sức chặt chẽ để tránh xử lý oan, sai, tránh những hành vi vi phạm pháp luật, vi phạm những quyền và lợi ích hợp pháp của công dân.

- Vai trò của việc bảo đảm quyền con người trong hoạt động bắt, tạm giữ, tạm giam

Bảo đảm quyền con người trong hoạt động bắt, tạm giữ, tạm giam có vai trò quan trọng nhằm bảo vệ các quyền, lợi ích hợp pháp của công dân thông qua đó quyền con người được bảo đảm thực hiện.

Trong TTHS, quyền và lợi ích hợp pháp của con người được thể hiện ở ba phương diện cơ bản là: tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm của con người; các quyền tự do dân chủ; quyền và lợi hợp pháp về tài sản.

BLTTHS năm 2003 ra đời có vai trò, vị trí đặc biệt quan trọng trong hoạt động đấu tranh phòng, chống tội phạm bảo vệ quyền con người, quyền công dân Việt Nam. BLTTHS 2003 quy định:

BLTTHS qui định trình tự, thủ tục, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hình sự; chức năng nhiệm vụ quyền hạn và mối quan hệ giữa các cơ quan Nhà nước; tổ chức xã hội và công dân, nhằm phát hiện chính xác, nhanh chóng và xử lý công minh, kịp thời mọi hành vi phạm tội, không để lọt tội phạm, không làm oan người vô tội. Bộ luật góp phần bảo vệ chế độ XHCN, bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, giáo dục công dân nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật và tôn trọng qui tắc của cuộc sống XHCN [43, Điều 1].

Trong hoạt động của các cơ quan bảo vệ pháp luật thì TTHS có vai trò quan trọng đối với bảo vệ tính mạng, sức khoẻ danh dự nhân phẩm của con người, ở bất cứ chế độ nào, con người phải được đặc biệt coi trọng con người không thể sống một cách bình thường và hoà nhịp với cộng đồng khi tính mạng sức khoẻ của họ bị đe dọa, danh dự nhân phẩm của họ thường bị xúc phạm, bôi nhọ. Vì vậy, công dân có quyền bất khả xâm phạm về thân thể được pháp luật bảo hộ về tính mạng sức khoẻ, danh dự và nhân phẩm, tự do, tài sản, các quyền và lợi ích hợp pháp.

Trên cơ sở quy định của Hiến pháp, các quyền cơ bản này được cụ thể hoá trong hệ thống các văn bản pháp luật tương ứng và được bảo vệ bằng một hệ thống các tội danh được quy định trong BLHS. Người đã thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội xâm hại các quyền cơ bản này của con người phải chịu trách nhiệm hình sự, tương ứng với tính chất, mức độ hậu quả của tội phạm mà họ đã thực hiện. Nếu người đó gây thiệt hại thì phải bồi thường theo quy định của pháp luật dân sự, tố tụng dân sự. Tuy nhiên, để truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người bị tình nghi phạm tội thì phải áp dụng các quy định của BLTTHS. Quá trình giải quyết vụ án hình sự là quá trình xác lập quan hệ pháp luật có tính chất bất bình đẳng giữa một bên là cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng được thực hiện quyền lực Nhà nước, ra các quyết định tố tụng và một bên là người bị tình nghi phạm tội phải phục tùng các quyết định tố tụng của bên kia. Trong quá trình này, các quyền cơ bản của người bị tình nghi luôn có nguy cơ bị đe dọa. Do vậy, bảo đảm các quyền cơ bản của con người cho họ, cũng chính là bảo đảm các quyền lợi ích hợp pháp của con người trong hoạt động hoạt động bắt, tạm giữ, tạm giam.

Những phân tích trên cho thấy, bảo đảm quyền con người trong hoạt động bắt, tạm giữ, tạm giam vừa góp phần bảo vệ các quyền, lợi ích hợp pháp của con người nói chung, thông qua việc buộc người xâm hại đến các quyền

Xem tất cả 120 trang.

Ngày đăng: 28/06/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí