Thực Trạng Bảo Đảm Quyền Con Người Trong Hoạt Động Bắt, Tạm Giữ, Tạm Giam Theo Luật Tths Việt Nam Trên Địa Bàn Tỉnh Đắk Lắk

giam cứu người phạm tội do TA quyết định; quy định về thời hạn giam cứu… Đồng thời Sắc lệnh cũng quy định trách nhiệm đối với cơ quan, cá nhân bắt, giam giữ người trái pháp luật [7, tr.66-67]. Việc bảo đảm quyền con người cũng được quy định tương đối cụ thể tại Sắc lệnh số 13 ngày 24- 01-1946 tổ chức các TA và các ngạch Thẩm phán.

Ngày 09-11-1946 Hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa được Quốc hội thông qua. Những tư tưởng cơ bản về bảo vệ quyền tự do, dân chủ công dân trong giải quyết vụ án hình sự đã được quy định. Hiến pháp khẳng định tất cả công dân Việt Nam đều bình đẳng trước pháp luật (điều 7); công dân không bị bắt giam khi chưa có quyết định của TA (điều 11); Nhà nước bảo đảm quyền bất khả xâm phạm về nhà ở, thư tín, quyền tư hữu về tài sản (điều 11, 12); bị cáo có quyền tự bào chữa hoặc mượn người bào chữa (điều 67); cấm các hình thức tra tấn, đánh đập, ngược đãi bị cáo (điều 68). Đặc biệt, việc bảo đảm quyền con người trước khi ban hành Hiến pháp năm 1959 được quy định đồng bộ và cụ thể tại Luật số 103-SL/L005 ngày 24- 01-1957 bảo đảm quyền tự do thân thể và quyền bất khả xâm phạm đối với nhà ở, đồ vật, thư tín của nhân dân. Luật này không chỉ quy định nguyên tắc chung, việc bắt người, tạm giữ, tạm giam và khám người, đồ vật, nhà ở, thư tín, mà còn quy định các thủ tục để tiến hành các hoạt động tố tụng đó. Đặc biệt, Luật quy định việc tạm giam phải do cơ quan tư pháp (TA) cấp tỉnh trở lên hoặc TA binh quyết định với thời hạn cụ thể; đồng thời cũng quy định việc tạm tha trong trường hợp không cần thiết hoặc đối với các đối tượng đặc biệt là người già yếu, phụ nữ có thai hoặc đang cho con bú (điều 7, 8) v.v… Ngày 31-12-1959 Quốc hội thông qua Hiến pháp lần thứ hai của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Hiến pháp một lần nữa khẳng định các nguyên tắc quan trọng về bảo đảm quyền con người như mọi công dân bình đẳng trước pháp luật; quyền bất khả xâm phạm về thân thể, nhà ở, thư tín; nguyên tắc xét xử công khai; TA xét xử

độc lập và chỉ tuân theo pháp luật; bảo đảm quyền bào chữa của bị cáo. Ngoài ra, so với Hiến pháp năm 1946, Hiến pháp năm 1959 có một số bổ sung rất quan trọng như quy định quyền khiếu nại, tố cáo của công dân (điều 29); nguyên tắc giám đốc xét xử của TA nhân dân tối cao đối với hoạt động xét xử của TA cấp dưới (điều 103). Các nguyên tắc hiến định trên đã được cụ thể hóa và thực hiện trong các luật (như Luật tổ chức TA nhân dân ngày 14-7-1960, Sắc luật số 01/SL-76 ngày 15-3-1976 của Hội đồng Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa Miền nam Việt Nam…), Nghị quyết của Hội đồng thẩm phán TA nhân dân tối cao, văn bản của các cơ quan có thẩm quyền khác hướng dẫn về công tác xét xử. Ví dụ: cụ thể hóa nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa cho bị can, bị cáo, Luật tổ chức TA nhân dân ngày 14-7-1960 quy định ngoài việc tự bào chữa, bị cáo có thể nhờ luật sư hoặc người khác bào chữa cho mình; khi cần thiết (bị cáo là người chưa thành niên, người có nhược điểm về thể chất hoặc tâm thần, bị cáo có thể bị phạt tử hình) và nếu bị cáo không nhờ người bào chữa thì TA chỉ định người bào chữa cho bị cáo. Hiến pháp năm 1980, Hiến pháp thứ ba của nước ta đã có những quy định hệ thống, cụ thể và tương đối hoàn chỉnh về bảo đảm quyền con người liên quan đến hoạt động xét xử vụ án hình sự. Ngoài việc quy định các quyền cơ bản của công dân như quyền bình đẳng trước pháp luật, quyền bất khả xâm phạm về thân thể, nhà ở, quyền được bảo hộ về tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm và tài sản, quyền về bí mật thư tín, điện thoại, điện tín, quyền khiếu nại, tố cáo…, Hiến pháp còn quy định các bảo đảm cũng như trách nhiệm trong việc bảo đảm thực hiện các quyền đó của công dân. Ví dụ: Khi quy định quyền bất khả xâm phạm về thân thể, Hiến pháp quy định không ai có thể bị bắt nếu không có quyết định của TA hoặc phê chuẩn của VKS, việc bắt và giam giữ người phải theo đúng pháp luật, nghiêm cấm mọi hình thức truy bức, nhục hình v.v… Về tổ chức và hoạt động của TA nhân dân, Hiến pháp 1980 tiếp tục ghi nhận các nguyên tắc quan trọng

bảo đảm thực hiện quyền con người như nguyên tắc TA xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật, nguyên tắc TA xét xử tập thể, nguyên tắc TA xét xử công khai, nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của bị cáo, nguyên tắc bảo đảm hiệu lực của các bản án, quyết định của TA đã có hiệu lực pháp luật v.v… Như vậy, từ khi Cách mạng tháng 8 thành công cho đến khi BLTTHS 1988 được ban hành, dù trong hoàn cảnh kinh tế, xã hội nào việc bảo đảm quyền con người trong TTHS cũng được Nhà nước ta thể hiện nhất quán trong các bản Hiến pháp và các văn bản pháp luật khác với phạm vi ngày càng rộng hơn, nội dung ngày càng cụ thể hơn, hoàn chỉnh hơn. Đó là cơ sở quan trọng cho việc tiếp tục hoàn thiện pháp luật của Nhà nước ta về bảo đảm quyền con người liên quan đến hoạt động TTHS trong BLTTHS 1988 và các văn bản pháp luật sau này.

Giai đoạn từ 1989 - 2003

BLTTHS đầu tiên của Nhà nước ta được Quốc hội thông qua ngày 28- 6-1988 và có hiệu lực thi hành từ ngày 01- 01-1989. Bằng việc ban hành bộ luật này, lần đầu tiên pháp luật TTHS được pháp điển hóa hệ thống trong một văn bản thống nhất. Cùng với các chế định khác, việc bảo đảm quyền con người trong hoạt động bắt, tạm giữ, tạm giam được quy định trong BLTTHS 1988 tương đối đầy đủ, toàn diện và hệ thống. Tính đầy đủ, toàn diện và hệ thống đó của BLTTHS thể hiện trong các điểm sau đây:

- Thứ nhất, BLTTHS 1988 quy định các nguyên tắc tố tụng quan trọng bảo đảm quyền con người. BLTTHS 1988 quy định hệ thống các nguyên tắc tố tụng khác nhau, trong đó nhóm nguyên tắc bảo đảm quyền con người chiếm vị trí quan trọng và là nhóm nguyên tắc được quy định đầu tiên trong BLTTHS. Cụ thể là:

+ Nguyên tắc tôn trọng và bảo vệ các quyền cơ bản của công dân (điều 3). Nguyên tắc này quy định trách nhiệm của người tiến hành tố tụng: a/ Phải tôn trọng các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân; b/ Thường xuyên kiểm

tra tính hợp pháp và sự cần thiết của các biện pháp (hạn chế quyền công dân) đã được áp dụng; c/ Kịp thời hủy bỏ hoặc thay thế các biện pháp đó nếu có vi phạm pháp luật hoặc không còn cần thiết;

+ Nguyên tắc bảo đảm quyền bình đẳng của mọi công dân trước pháp luật (điều 4). Công dân ở địa vị pháp lý như nhau thì có quyền và nghĩa vụ tố tụng như nhau và cơ quan có thẩm quyền phải bảo đảm cho công dân thực hiện đầy đủ các quyền và nghĩa vụ tố tụng đó để bảo vệ quyền và lợi ích của mình;

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 120 trang tài liệu này.

+ Nguyên tắc bảo đảm quyền bất khả xâm phạm về thân thể của công dân (điều 5). Theo nguyên tắc này, không ai có thể bị bắt nếu không có quyết định của TA hoặc phê chuẩn của VKS. Việc bắt, giam giữ người phải tuân thủ quy định của BLTTHS về điều kiện, thẩm quyền, thủ tục và thời hạn. Đồng thời, trong TTHS mọi hình thức truy bức, dùng nhục hình đều bị cấm;

+ Nguyên tắc bảo hộ tính mạng, sức khỏe, tài sản, danh dự và nhân phẩm (điều 6). Nguyên tắc nghiêm cấm hành vi xâm phạm tính mạng, sức khỏe, tài sản, danh dự và nhân phẩm của công dân trong hoạt động TTHS của cơ quan, người có thẩm quyền; mọi hành vi vi phạm đều bị xử lý theo pháp luật bằng các biện pháp như xử lý kỷ luật, buộc bồi thường hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự;

Bảo đảm quyền con người trong hoạt động bắt, tạm giữ, tạm giam theo luật Tố tụng hình sự Việt Nam trên cơ sở số liệu thực tiễn địa bàn tỉnh Đắk Lắk - 8

+ Nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của bị can, bị cáo (điều 12). Đây là một nguyên tắc rất quan trọng trong TTHS nhằm bảo đảm quyền con người. Nguyên tắc này khẳng định bị can, bị cáo có quyền tự bào chữa hoặc nhờ người khác bào chữa. Trong những trường hợp bị can, bị cáo là người chưa thành niên, người có nhược điểm về thể chất hoặc tâm thần, người bị truy tố về tội có khung hình phạt tử hình và nếu họ hoặc người đại diện hợp pháp của họ không nhờ người bào chữa thì TA phải yêu cầu cử người bào chữa cho họ. Đồng thời nguyên tắc cũng quy định trách nhiệm của cơ quan tiến hành tố tụng bảo đảm cho bị can, bị cáo thực hiện quyền bào chữa như

giải thích cho họ quyền bào chữa, tạo điều kiện cho bị can, bị cáo nhờ người bào chữa, yêu cầu cử người bào chữa trong trường hợp quy định, tạo điều kiện cho người bào chữa thực hiện quyền tố tụng;

+ Nguyên tắc bảo đảm quyền khiếu nại và tố cáo của công dân đối với hoạt động của cơ quan tiến hành TTHS (điều 24). Đây là nguyên tắc rất quan trọng lần đầu tiên được quy định trong pháp luật TTHS nước ta. Nguyên tắc quy định: Mọi công dân có quyền khiếu nại, tố cáo việc làm trái pháp luật của CQĐT, VKS, TA hoặc của cán bộ của các cơ quan đó; Cơ quan có thẩm quyền có trách nhiệm xem xét, giải quyết nhanh chóng khiếu nại, tố cáo của công dân; thông báo cho người khiếu nại, tố cáo và có biện pháp khắc phục; Cơ quan đã làm oan phải khôi phục danh dự, quyền lợi cho người bị thiệt hại; cá nhân có hành vi trái pháp luật thì tùy trường hợp mà bị xử lý kỷ luật hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Nguyên tắc này thể hiện một trong những nội dung quan trọng của việc bảo đảm quyền con người của người tham gia tố tụng nói chung cũng như người bị bắt, bị tạm giữ, tạm giam nói riêng.

Ngoài những nguyên tắc trực tiếp liên quan đến quyền con người trong TTHS, BLTTHS 1988 cũng quy định các nguyên tắc tố tụng khác bảo đảm cho các quyền đó được thực hiện trong thực tiễn xét xử như nguyên tắc xác định sự thật của vụ án, nguyên tắc bảo đảm sự vô tư của những người tiến hành hoặc người tham gia tố tụng v.v…

- Thứ hai, BLTTHS 1988 quy định cụ thể các biện pháp ngăn chặn gồm mục đích, căn cứ áp dụng (điều 61), thẩm quyền áp dụng và thủ tục áp dụng đối với từng biện pháp ngăn chặn cụ thể như bắt người (điều 62 - 65), tạm giữ (điều 68-69), tạm giam (điều 70), cấm đi khỏi nơi cư trú (điều 74), bảo lĩnh (điều 75), đặt tiền hoặc tài sản để bảo đảm (điều 76). Đồng thời BLTTHS 1988 cũng quy định việc hủy bỏ hoặc thay thế biện pháp ngăn chặn (điều 77) v.v…

- Thứ ba, BLTTHS 1988 quy định thẩm quyền, trình tự, thủ tục tố tụng nhằm bảo đảm quyền con người. Là một văn bản luật hình thức, BLTTHS 1988 quy định tương đối cụ thể các trình tự, thủ tục tố tụng nhằm bảo đảm giải quyết vụ án hình sự chính xác, khách quan, toàn diện trên cơ sở tôn trọng và bảo vệ các quyền con người như quy định rò ràng, chặt chẽ thẩm quyền tố tụng cụ thể cho các cơ quan và người tiến hành tố tụng, đặc biệt là thẩm quyền áp dụng các biện pháp cưỡng chế tố tụng nói chung và biện pháp ngăn chặn nói riêng; quy định căn cứ và thời hạn áp dụng các biện pháp cưỡng chế tố tụng; quy định các thủ tục áp dụng các biện pháp cưỡng chế tố tụng và các thủ tục tố tụng có liên quan đến quyền tự do, dân chủ công dân như thủ tục bắt người, thủ tục khám xét, thu giữ, thủ tục xét hỏi, lấy lời khai, hỏi cung, thủ tục phiên tòa v.v… Nhìn chung, các quy định của BLTTHS 1988 về thẩm quyền tố tụng, về trình tự, thủ tục tố tụng là phù hợp với khả năng thực tế của cơ quan, người tiến hành tố tụng và yêu cầu của việc bảo đảm quyền con người. Tinh thần chung của BLTTHS 1988 thể hiện quan điểm bảo đảm quyền con người của Nhà nước ta là biện pháp tố tụng càng nghiêm khắc, càng ảnh hưởng đến quyền con người thì thẩm quyền càng hẹp, trình tự, thủ tục càng chặt chẽ. Ví dụ: đối với biện pháp ngăn chặn nghiêm khắc nhất ảnh hưởng rất lớn đến quyền tự do thân thể của công dân là tạm giam, BLTTHS 1988 quy định rất chặt chẽ căn cứ (điều 70); quy định chỉ có Thủ trưởng CQĐT, Viện trưởng, Phó Viện trưởng VKS, Chánh án, Phó Chánh án TA, Hội đồng xét xử mới có thẩm quyền ra lệnh bắt tạm giam; quy định thủ tục chặt chẽ về việc bắt tạm giam (không bắt vào ban đêm, bắt người phải có lệnh viết, có đại diện chính quyền, cơ quan và người chứng kiến) (điều 62); quy định thời hạn tạm giam và gia hạn thời hạn tạm giam trong các giai đoạn tố tụng rất cụ thể và chặt chẽ v.v...

- Thứ năm, BLTTHS 1988 quy định các chế tài tố tụng đối với việc vi

phạm quyền con người. Đồng thời với việc quy định các trình tự, thủ tục tố tụng, BLTTHS 1988 cũng quy định các chế tài tố tụng đối với các vi phạm thủ tục tố tụng của cơ quan và người tiến hành tố tụng, bảo đảm cho các trình tự, thủ tục tố tụng được thực hiện nghiêm chỉnh, thống nhất, khách quan, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của công dân. Theo quy định của điều 141 BLTTHS 1988, thì khi thực hiện chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật, VKS có nhiệm vụ bảo đảm để không một người nào bị bắt, tạm giữ, tạm giam, bị hạn chế các quyền con người, bị xâm phạm tính mạng, tài sản, danh dự, nhân phẩm một cách trái pháp luật. Để thực hiện nhiệm vụ đó, VKS có quyền phê chuẩn hay không phê chuẩn các quyết định tạm giam, tạm giữ của CQĐT, hủy bỏ các quyết định trái pháp luật của CQĐT, yêu cầu cung cấp tài liệu về việc làm trái pháp luật của Điều tra viên, yêu cầu thay đổi Điều tra viên… BLTTHS 1988 quy định vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng trong quá trình tiến hành tố tụng như không bảo đảm quyền bào chữa cho bị can, bị cáo theo quy định của pháp luật, bức cung, dùng nhục hình trong quá trình điều tra… là một trong những căn cứ trả hồ sơ để điều tra bổ sung (điều 142, điều 154). Các vi phạm pháp luật khác xâm phạm đến quyền tự do, dân chủ của công dân có thể bị khiếu nại đến cơ quan có thẩm quyền để xem xét trách nhiệm áp dụng các biện pháp tố tụng như thay đổi người tiến hành tố tụng. Ngoài chế tài tố tụng, người tiến hành tố tụng có hành vi xâm phạm quyền con người trong hoạt động tố tụng còn có thể bị xử lý kỷ luật, bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật.

Tóm lại, so với các văn bản pháp luật TTHS trước đây, BLTTHS 1988 đã có một bước phát triển lớn liên quan đến việc tôn trọng và bảo vệ các quyền tự do, dân chủ của công dân. Các chế định khác nhau của BLTTHS 1988 đều thể hiện rò nét nguyên tắc tôn trọng và bảo đảm quyền con người trong TTHS. Tuy nhiên, qua hơn 15 năm thực hiện và trước yêu cầu của việc

đổi mới tư pháp, xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân ở nước ta hiện nay, nhiều quy định của BLTTHS 1988 đã tỏ ra bất cập: BLTTHS chưa quy định rò ràng, cụ thể trách nhiệm, quyền hạn của những người tiến hành tố tụng; địa vị tố tụng của những người tham gia tố tụng vẫn chưa thật đầy đủ, nhất là quyền tố tụng của công dân; khiếu nại, tố cáo trong TTHS chưa được quy định một cách đầy đủ, rò ràng; các thủ tục tố tụng chưa thể hiện đầy đủ cơ chế tố tụng và bảo đảm quyền tự do dân chủ của công dân, quyền bình đẳng của mọi công dân trước pháp luật v.v…

2.2. Thực trạng bảo đảm quyền con người trong hoạt động bắt, tạm giữ, tạm giam theo luật TTHS Việt Nam trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk

2.2.1. Thực trạng pháp luật bảo đảm quyền con người trong hoạt động bắt, tạm giữ, tạm giam theo luật TTHS Việt Nam

BLTTHS 2003 được ban hành trên cơ sở kế thừa các thành tựu lập pháp TTHS của Nhà nước ta và yêu cầu của việc xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN trong bối cảnh kinh tế xã hội mới cũng như đòi hỏi của việc tôn trọng và bảo đảm quyền con người nói chung trong xã hội và trong hoạt động TTHS nói riêng.

Trong BLTTHS 2003, các quy phạm pháp luật liên quan đến bảo đảm quyền con người trong hoạt động bắt, tạm giữ, tạm giam được quy định tương đối đầy đủ, toàn diện và có hệ thống thể hiện qua các điểm sau:

Thứ nhất, BLTTHS 2003 quy định các nguyên tắc tố tụng tôn trọng và bảo đảm quyền con người, nhóm các nguyên tắc này chiếm vị trí quan trọng và là nhóm nguyên tắc được quy định đầu tiên trong BLTTHS. Cụ thể là:

+ Nguyên tắc tôn trọng và bảo vệ quyền cơ bản của công dân Điều 4 BLTTHS 2003 quy định:

Khi tiến hành tố tụng, Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng CQĐT, Điều tra

Xem tất cả 120 trang.

Ngày đăng: 28/06/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí