Bảo đảm quyền con người đối với người bị bắt trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự - 13

bắt và những người chứng kiến nghe. Người bị bắt, người thi hành lệnh bắt và người chứng kiến phải cùng ký tên vào biên bản, nếu ai có ý kiến khác hoặc không đồng ý với nội dung biên bản thì có quyền ghi vào biên bản và ký tên. Việc tạm giữ đồ vật, tài liệu của người bị bắt phải được tiến hành theo quy định của bộ luật này. Khoản 2 quy định: Khi giao và nhận người bị bắt, hai bên giao và nhận phải lập biên bản. Ngoài những điểm quy định tại khoản 1 Điều84, biên bản giao nhận còn phải ghi rò việc bàn giao các biên bản lấy lời khai, đồ vật, tài liệu đã thu thập được, tình trạng, sức khỏe của người bị bắt và mọi tình tiết xảy ra lúc giao nhận. Với những quy định như vậy luật đã liệt kê tương đối đầy đủ các điều kiện, nội dung, yêu cầu... của biên bản. Tuy vậy đây mới chỉ là điều kiện cần mà còn thiếu điều kiện đủ; Luật mới chỉ đề ra các quy định nhìn từ góc độ bảo đảm các quyền của Nhà nước mà chưa xem xét từ góc độ bảo đảm quyền của người bị bắt. Do vậy biên bản về việc bắt người cần bổ sung thêm“biên bản cần được lập làm hai bản và người bị bắt phải được giao một bản” để nhằm tránh sự thất lạc, mất mát sai soát, tùy tiện của chủ thể tiến hành tố tụng và thể hiện sự tôn trọng người bị bắt.

+ Điều 85 thông báo về việc bắt quy định: Người ra lệnh bắt, cơ quan điều tra nhận người bị bắt phải thông báo ngay cho gia đình người bị bắt, chính quyền phường, thị trấn, hoặc cơ quan tổ chức nơi người đó cư trú hoặc làm việc biết. Nếu thông báo cản tr việc điều tra thì sau khi cản tr đó không còn nữa, người ra lệnh bắt, cơ quan điều tra nhận người bị bắt phải thông báo ngay. Để đảm bảo quy định pháp luật được rò ràng, thuận tiện cho việc áp dụng và bảo đảm được quyền của người bị bắt, Luật cần quy định rò hơn trường hợp nào bị coi là cản tr việc điều tra, trường hợp nào không cản tr điều tra để thông báo theo quy định pháp luật về việc bắt người đối với gia đình người bị bắt.

3.1.3. Hoàn thiện quy định về địa vị pháp lý của người bị bắt trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự.

Quyền con người, đặc biệt là quyền con người của những người bị bắt, tạm giữ, tạm giam trong TTHS luôn là một đề tài được quan tâm hàng đầu của tất cả các quốc gia trên thế giới. Quyền của người bị bắt đã được đề cập từ rất sớm trong các văn kiện quốc tế về quyền con người như: Tuyên ngôn của Liên hợp quốc về nhân quyền; Công ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị; Công ước quốc tế về các quyền kinh tế, văn hóa, xã hội. Các văn kiện trên đều nhất quán thừa nhậnkhông ai bị bắt, giam giữ hay lưu đày một cách tuỳ tiện. Các quyền con người của người bị bắt đều được thừa nhận và đảm bảo.

Hiến pháp Việt Nam hiện hành cũng quy định: “Không ai bị bắt nếu không có quyết định của Toà án nhân dân, quyết định hoặc phê chuẩn của Viện kiểm sát nhân dân, trừ trường hợp phạm tội quả tang. Việc bắt, giam, giữ người do luật định”. Như vậy, Hiến pháp năm 2013 đã tạo ra hành lang pháp lý cơ bản để người bị bắt có các quyền cơ bản theo luật định. Vấn đề cần thiết hiện nay là cần quy định cụ thể các quyền pháp lý của người bị bắt để có thể đảm bảo thực hiện được các quyền con người của họ. Chính vì lẽ đó, chúng tôi đề xuất một số quyền cơ bản của người bị bắt cần được thể hiện cụ thể trong BLTTHS (sửa đổi) để cho phù hợp với yêu cầu bảo đảm quyền con người của họ. Các quyền đó có thể bao gồm:

- Quyền được nghe, nhận lệnh bắt, quyết định phê chuẩn lệnh bắt, đọc biên bản bắt người.... Đây là quyền đầu tiên mà người bị bắt cần được tôn trọng. B i lẽ, đối với người bị áp dụng biện pháp ngăn chặn bắt, tức là việc họ bị tác động vào các quyền con người cơ bản, trong đó có quyền tự do về thân thể. Đồng thời biện pháp bắt người cũng là biện pháp có khả năng gây ảnh hư ng tới sức khỏe, tính mạng, sự tự do của người bị bắt. Chính vì vậy, việc

bắt người cần được tiến hành theo thủ tục luật định, do cơ quan nhà nước có thẩm quyền được pháp luật TTHS trao cho thẩm quyền ra lệnh bắt người hoặc phê chuẩn lệnh bắt người. Các quyết định trên cho thấy việc bắt là đúng pháp luật, tránh tình trạng người bị bắt bị các đối tượng không có quyền bắt người cũng tiến hành bắt. Do đó, người bị bắt cần có quyền được nghe, nhận lệnh bắt tạm giam, bắt khẩn cấp, quyết định phê chuẩn lệnh bắt tạm giam, bắt khẩn cấp, quyết định truy nã. Ngoài ra, phải giao cho người bị bắt biên bản về việc bắt người, vì quá trình bắt giữ có thể vi phạm thủ tục tố tụng nhưng biên bản không phản ánh đúng sự thật thì người bị bắt sẽ không có bằng chứng khiếu kiện về sau.

- Quyền được biết lý do mình bị bắt: đây cũng là quyền quan trọng của người bị bắt. Quyền biết lý do mình bị bắt tức là việc người bị bắt được thông báo về lý do tại sao mình bị bắt từ các chủ thể tiến hành lệnh bắt. Thông thường lý do mình bị bắt được thể hiện trong văn bản là lệnh bắt. Điều này cũng cho thấy tính hợp pháp của việc bắt người.

- Quyền được tự bào chữa và nhờ người khác bào chữa:Tại khoản 4 Điều 31 Hiến pháp năm 2013 đã quy định rất cụ thể:“Người bị bắt, tạm giữ, tạm giam, kh i tố, điều tra, truy tố, xét xử có quyền tự bào chữa, nhờ luật sư hoặc người khác bào chữa”. Như vậy có thể thấy, Hiến pháp mới đã m rộng phạm vi các đối tượng được đảm bảo quyền bào chữa, không chỉ bị cáo mới có quyền bào chữa như các bản Hiến pháp cũ quy định, mà ngay từ khi một người bị bắt, đã phát sinh quyền tự bào chữa, hoặc nhờ luật sư bào chữa đối với họ, được đảm bảo b i đạo luật có giá trị pháp lý cao nhất là Hiến pháp. Điều này có nghĩa là trong tố tụng hình sự nói chung cũng như trong giai đoạn điều tra nói riêng, quyền bào chữa, được bào chữa cho phép người bị bắt có chỗ dựa về pháp lý, tinh thần, kiến thức, niềm tin để công khai đứng ra bảo vệ mình, chống lại sự buộc tội là có tội của bên buộc tội. Điều này này khẳng

định người bị bắt có quyền tự bào chữa hoặc nhờ người khác bào chữa đồng thời quy định trách nhiệm của cơ quan tiến hành tố tụng trong đó có cơ quan điều tra bảo đảm cho người bị bắt thực hiện quyền bào chữa như giải thích cho họquyền bào chữa, tạo điều kiện cho người bị bắt đưa ra tài liệu, chứng cứ, trình bày lời khai chứng minh mình vô tội và giải thích, tạo điều kiện cho người bị bắt được quyền nhờ người bào chữa, yêu cầu cửngười bàochữa trong trường hợp quy định, tạo điều kiện cho người bào chữa thực hiện quyền tố tụng (cấp giấy chứng nhận người bào chữa, thông báo cho người bàochữa thời gian, địa điểm hỏi cung bị can, tống đạt các quyết định của cơ quan tiếnhành tố tụng…).. Đối với những trường hợp người bị bắt là người chưa thành niên, người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất thì bắt buộc phải có người bào chữa cho họ, cả trong trường hợp họ không thuê người bào chữa. Trường hợp này, trách nhiệm cử người bào chữa thuộc về cơ quan tiến hành tố tụng. Ngoài ra, việc quy định rò ràng quyền của người bị bắt trong tự bào chữa hoặc nhờ người khác bào chữa cũng nhằm bảo đảm cho hoạt động tố tụng nói chung và hoạt động điều tra nói riêng phải tuân thủ chặt chẽ các quy định của pháp luật, việc buộc tội đối với người bị bắt phải có căn cứ vững chắc và đúng pháp luật, không bỏ lọt tội phạm và không làm oan người vô tội. Vì vậy việc quy định quyền tự bào chữa hoặc nhờ người khác bào chữa của người bị bắt là rất cần thiết.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 121 trang tài liệu này.

- Quyền được bồi thường về vật chất, tinh thần và quyền được phục hồi danh dự khi bị bắt trái pháp luật. Đây cũng chính là quyền con người cơ bản của người bị bắt cần được tôn trọng. Việc áp dụng sai biện pháp ngăn chặn bắt người trên thực tế là có xảy ra, và trong giai đoạn hiện nay thì càng có nhiều vụ bắt oan sai xảy ra. Khi bị áp dụng biện pháp ngăn chặn bắt mà oan, sai xảy ra thì người bị bắt cần được bồi thường về vật chất, tinh thần, phục hồi danh dự cho quãng thời gian bị bắt oan, sai của mình. Hiện nay theo quy định

của Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước thì cơ quan có thẩm quyền bắt oan, sai thì sẽ phải bồi thường và phục hồi danh dự của người bị oan, sai. Do đó, quy định quyền này trong BLTTHS là cần thiết.

Bảo đảm quyền con người đối với người bị bắt trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự - 13

Như vậy, các quyền đã được phân tích trên là quyền quan trọng của người bị bắt. Thực tế, BLTTHS năm 2003 chưa quy định một điều riêng về quyền của người bị bắt. Để thế chế hóa quan điểm của Đảng và Nhà nước về quyền con người của người bị bắt theo quy định tại Hiến pháp năm 2013đồng thời bảo đảm tốt hơn quyền của người bị bắt trong tố tụng hình sự nói chung, giai đoạn điều tra nói riêng, đề nghị BLTTHS cần tiếp tục quy định một điều riêng về địa vị pháp lý của người bị bắt, cụ thể như sau:

Điều….: Người bị bắt


“1.……………………………………..


2. Người bị bắt có quyền:


a) Được nghe, nhận lệnh bắt tạm giam, bắt khẩn cấp, quyết định phê chuẩn lệnh bắt tạm giam, bắt khẩn cấp, quyết định truy nã và biên bản bắt người;

b) Được biết lý do mình bị bắt;


c) Tự bào chữa hoặc nhờ người bào chữa;


d) Được bồi thường thiệt hại về vật chất, tinh thần và phục hồi danh dự khi bị bắt trái pháp luật;

3. Người bị bắt có nghĩa vụ chấp hành lệnh bắt người và tuân thủ các quy định khác theo quy định của pháp luật về bắt người”.

3.2. Các giải pháp khác


3.2.1. Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra


Tăng cường hoạt động kiểm sát, giám sát hoạt động tố tụng hình sự, phát hiện các vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng, xâm phạm đến quyền con người của người bị bắt để có biện pháp khắc phục về tố tụng như kháng nghị kiến nghị, yêu cầu để CQĐT và các cơ quan khác được giao tiến hành một số hoạt động điều tra khắc phục được vi phạm. Trong hoạt động kiểm sát điều tra, hoạt động của VKS nhằm đảm bảo quyền con người của người bị áp dụng biện pháp ngăn chặn là rất quan trọng trong, ngoài ra còn có một số hoạt động khác như hoạt động giải quyết khiếu nại, tố cáo… cần chú trọng hơn nữa tới việc kiểm tra văn hóa điều tra, kỹ năng tố tụng để có thông báo rút kinh nghiệm nhằm nâng cao chất lượng hoạt động tố tụng, tăng cường bảo đảm quyền con người của người bị bắt.

3.2.2. Nâng cao nhận thức, trình độ của Điều tra viên, Kiểm sát viên, trong đảm bảo quyền con người của người bị bắt

Như chúng tôi đã phân tích trên, bảo đảm quyền con người của người bị bắt phụ thuộc rất nhiều vào sự hoàn thiện của các quy định pháp luật và hướng dẫn áp dụng thống nhất pháp luật. Tuy nhiên, dù pháp luật có quy định cụ thể đến đâu thì hiệu quả của nó phụ thuộc rất nhiều vào quan điểm, nhận thức của người áp dụng pháp luật trong từng trường hợp cụ thể. Đặc biệt, trong BLTTHS nhiều quy định được áp dụng hay không lại tùy thuộc vào đánh giá chủ quan của người có thẩm quyền.

Vì vậy, có thể nói tăng cường nhận thức, trình độ chuyên môn nghiệp vụ, trình độ văn hóa ứng xử cho Thủ trư ng, Phó Thủ trư ng, Điều tra viên Cơ quanđiều tra, Viện trư ng, Phó Viện trư ng, Kiểm sát viên Viện kiểm sát, là giải pháp quan trọng đảm bảo cho hoạt động điều tra, đáp ứng yêu cầu tôn

trọng và bảo đảm quyền con người nói chung, quyền của người bị bắt nói riêng. Theo chúng tôi, để thực hiện giải pháp này cần tiến hành các biện pháp sau đây:

- Tăng cường đào tạo, bồi dưỡng, tập huấn chuyên môn, nghiệp vụ, nhất là kỹ năng tố tụng cho đội ngũ Điều tra viên, Kiểm sát viên. Những người tiến hành tố tụng phải nhận thức đúng đắn, đầy đủ về các quy định của pháp luật liên quan đến bảo đảm quyền con người đặc biệt của người bị áp dụng biện pháp ngăn chặn trong đó có biện pháp bắt;

- Tăng cường giáo dục chính trị tư tư ng, chính sách pháp luật, nhất là chính sách nhân đạo của Nhà nước ta đối với người phạm tội, quan điểm bảo đảm quyền con người trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa cho cán bộ cơ quan tiến hành tố tụng các cấp;

- Đồng thời với việc nâng cao trình độ, năng lực của người tiến hành tố tụng, Nhà nước ta cũng cần có các biện pháp tăng cường đội ngũ luật sư về tổ chức, số lượng cũng như chất lượng, nâng cao vị thế luật sư trong tố tụng hình sự, bảo đảm vai trò quan trọng của luật sư trong bảo vệ quyền con người của người bị bắt.

3.2.3. Hoàn thiện chế độ trách nhiệm đối với đối cơ quan tiến hành tố tụng

Nâng cao trách nhiệm của cơ quan tiến hành tố tụng nói chung và cơ quan điều tra nói riêng trước nguời tham gia tố tụng trong đó có người bị bắt là giải pháp quan trọng trong việc bảo đảm thực hiện các quyền của người bị bắt. Việc hoàn thiện chế độ trách nhiệm của người tiến hành tố tụng cũng là giải pháp cần thiết để bảo đảm quyền con người của người bị bắt trong giai đoạn điều tra.

- Trước hết cần hoàn thiện các quy định về trách nhiệm hình sự đối với các hành vi xâm phạm quyền con người trong tố tụng hình sự nói chung,

trong giai đoạn điều tra nói riêng. Theo chúng tôi, cần bổ sung vào Chương XXII BLHS một điều luật quy định tội thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng trong hoạt động tố tụng.

Đồng thời, cần phải mạnh dạn truy cứu trách nhiệm hình sự đối với những trường hợp do thiếu trách nhiệm truy cứu trách nhiệm hình sự oan người đặc biệt là bắt người không có căn cứ. Những quy định chặt chẽ trên mới có thể nâng cao trách nhiệm của người tiến hành tố tụng trong việc bảo đảm quyền con người. Thực tiễn những năm qua cho thấy, do thiếu trách nhiệm của người tiến hành tố tụng mà xảy ra nhiều trường hợp người không có tội bị xét xử oan, gây hậu quả về vật chất, tinh thần rất nghiêm trọng cho công dân (vụ Bùi Minh Hải, vụ Nguyễn Sĩ Lý…). Việc truy cứu trách nhiệm hình sự trong những trường hợp này sẽ có tính giáo dục, răn đe, phòng ngừa rất lớn;

- Từng bước hoàn thiện pháp luật về bồi thường thiệt hại trong trường hợp oan, sai trong tố tụng hình sự. Điều 26 Luật trách nhiệm bồi thường của Nhà nước năm 2009 đã quy định tương đối chi tiết các trường hợp Nhà nước có trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong hoạt động tố tụng hình sự. Điều 27 của Luật quy địnhnhững trường hợp không được bồi thường. Đó là một bước tiến rất lớn về mặt lập pháp so với Nghị quyết 388/NQ-UBTVQH. Tuy nhiên, từ góc độ bảo đảm quyền con người của người bị bắt, theo chúng tôi vấn đề này cần được nghiên cứu tiếp theo hướng Nhà nước có trách nhiệm bồi thường thiệt hại không chỉ trong trường hợp oan, mà cả trong trường hợp điều tra, truy tố, xét xử sai gây thiệt hại cho công dân trong đó có trường hợp bắt người trái pháp luật;

- Hoàn thiện chế độ kỷ luật đối với hành vi xâm phạm quyền con người trong tố tụng hình sự. Những hành vi của người có thẩm quyền tiến hành tố

Xem tất cả 121 trang.

Ngày đăng: 28/06/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí