Bảo đảm quyền con người của những người bị hạn chế quyền tự do trong luật tố tụng hình sự Việt Nam - 2

MỞ ĐẦU


1. Tính cấp thiết của đề tài

Quyền con người là thành quả phát triển của lịch sử lâu dài trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng, cải tạo xã hội và cải tạo thiên nhiên của cả nhân loại. Trong xu hướng toàn cầu hóa về kinh tế, giao lưu hợp tác nhiều mặt đang luôn được mở rộng, QCN ở mỗi quốc gia có giá trị chung giống nhau và là mục đích hướng tới của nhân loại. Đảm bảo QCN là một trong những nội dung quan trọng, nhằm mục đích xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Hiện nay, Đất nước ta đang trên đường đổi mới để xây dựng một xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, vững bước tiến lên chủ nghĩa xã hội. Để đạt được điều đó, một yêu cầu đặt ra đối với pháp luật là phải bảo đảm QCN, bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân trong đó đặc biệt bảo đảm QCN đối với nhóm yếu thế trong tố tụng hình sự - người bị hạn chế quyền tự do.

Theo tinh thần Hiến pháp 2013 của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam quy định:

Ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các quyền con người, quyền công dân về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa và xã hội được công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm theo Hiến pháp và pháp luật. quyền con người, quyền công dân chỉ có thế bị hạn chế theo quy định của luật trong trường hợp cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe của cộng đồng [39, Điều 14].

Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02-6-2005 của Bộ chính trị “Về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020” cũng khẳng định:

Đòi hỏi của công dân và xã hội đối với cơ quan tư pháp ngày càng cao; các cơ quan tư pháp phải thật sự là chỗ dựa của nhân dân trong việc bảo vệ công lý, quyền con người, đồng thời phải là công cụ hữu hiệu bảo vệ pháp luật và pháp chế xã hội chủ nghĩa, đấu tranh có hiệu quả với các loại tội phạm và vi phạm [3].

Việc tiến hành các hoạt động tố tụng hình sự bao giờ cũng tiềm ẩn trong nó

ít nhất hai loại nguy cơ. Nguy cơ thứ nhất là sự xung đột lợi ích giữa một bên là lợi ích của số đông mà đại diện là các cơ quan tiến hành tố tụng, và bên kia là lợi ích của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, những người bị tình nghi là đã thực hiện hành vi phạm tội. Nguy cơ thứ hai là nguy cơ lạm dụng quyền lực của những cơ quan và cá nhân được pháp luật giao cho rất nhiều quyền hành và công cụ. Chính vì vậy, vấn đề bảo vệ QCN cơ bản của các đối tượng bị hạn chế quyền tự do là người bị tạm giữ, bị can, bị cáo trong quá trình tố tụng, trao cho họ những quyền năng tố tụng để họ có thể tự bảo vệ mình thông qua việc đòi hỏi một sự phán xét công minh từ phía Nhà nước là một vấn đề hết sức được chú trọng trong các văn kiện quốc tế quan trọng nhất về QCN cũng như trong pháp luật TTHS của đa số các nước trên thế giới, trong đó có Việt Nam.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 143 trang tài liệu này.

Hoạt động tố tụng hình sự là một mặt hoạt động của Nhà nước liên quan chặt chẽ với QCN. Hoạt động TTHS là nơi các biện pháp cưỡng chế Nhà nước được áp dụng phổ biến nhất; vì vậy là nơi QCN của các chủ thể tố tụng, đặc biệt là người bị hạn chế quyền tự do có nguy cơ dễ bị xâm hại. Thực tiễn điều tra, truy tố, xét xử trong những năm qua cho thấy rằng cũng còn nhiều trường hợp vi phạm QCN đối với người bị hạn chế quyền tự do trong quá trình tiến hành tố tụng.

Vì vậy, có thể nói nghiên cứu việc bảo đảm QCN đối với người bị hạn chế quyền tự do trong TTHS từ góc độ lập pháp cũng như áp dụng pháp luật có vai trò quan trọng trong việc thực hiện nhiệm vụ xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa nói chung, công cuộc cải cách tư pháp ở nước ta nói riêng. Với lý do trên, tôi đã lựa chọn đề tài “Bảo đảm quyền con người của những người bị hạn chế quyền tự do trong luật tố tụng hình sự Việt Nam” làm luận văn Thạc sĩ Luật học của mình.

Bảo đảm quyền con người của những người bị hạn chế quyền tự do trong luật tố tụng hình sự Việt Nam - 2

2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài

Quyền con người là sự kết tinh những giá trị cao đẹp nhất trong nền văn hóa của nhân loại và được bảo vệ trong bất cứ hoàn cảnh nào, trên bất kỳ lĩnh vực nào của đời sống xã hội trong đó có lĩnh vực pháp lý. Vì vậy, vấn đề bảo đảm QCN nói chung, QCN trong hoạt động TTHS đã được nhiều tác giả nghiên cứu từ các góc độ và với các mức độ khác nhau.

Ở góc độ nghiên cứu về bảo đảm QCN nói chung trong Nhà nước pháp quyền, đã có các công trình "Quyền con người trong thế giới hiện đại" của nguyên Giám đốc trung tâm QCN Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh GS.TS. Hoàng Văn Hảo và Phạm Ích Khiêm; công trình "Triết học chính trị về Quyền con người " của Nguyễn Văn Vĩnh; công trình " Quyền con người, quyền công dân trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam” của GS.TS. Trần Ngọc Đường; bài báo "Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam với việc bảo đảm Quyền con người " của TS. Tường Duy Kiên; chuyên khảo "Quyền lực Nhà nước và Quyền con người " của PGS. TS. Đinh Văn Mậu; các công trình của GS. TSKH Lê Văn Cảm về Nhà nước pháp quyền, về bảo đảm QCN trong Nhà nước pháp quyền; giáo trình “Lý luận và pháp luật về Quyền con người” của PGS. TS. Nguyễn Đăng Dung, ThS. Vũ Công Giao, ThS. Lã Khánh Tùng đồng chủ biên.

Góc độ pháp luật chuyên ngành nghiên cứu những đảm bảo QCN trong hoạt động tư pháp cũng như trong hoạt động tố tụng sự có các công trình nghiên cứu sau:

Cấp độ luận án tiến sỹ luật học có các đề tài: "Bảo đảm Quyền con người trong hoạt động tư pháp ở Việt Nam hiện nay” của Nguyễn Huy Hoàn, 2005.

Bên cạnh đó, về giáo trình, sách chuyên khảo, bình luận có các công trình sau: Công trình nghiên cứu khoa học cấp Đại học quốc gia “ Bảo vệ Quyền con người bằng pháp luật hình sự và pháp luật tố tụng hình sự trong giai đọan xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam” do GS.TSKH. Lê Văn Cảm, TS. Nguyễn Ngọc Chí, TS. Trịnh Quốc Tỏan đồng chủ trì; báo cáo "Bảo đảm Quyền con người trong tố tụng hình sự trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam" tại Hội thảo về QCN trong TTHS (do VKSND tối cao và Ủy ban nhân quyền Australia tổ chức tháng 3-2010) của PGS. TS. Nguyễn Thái Phúc; chuyên khảo "Bảo vệ Quyền con người trong luật hình sự, luật tố tụng hình sự Việt Nam" của TS. Trần Quang Tiệp; chuyên khảo "Những nguyên tắc cơ bản của luật tố tụng hình sự Việt Nam" của PGS.TS. Hòang Thị Sơn và TS. Bùi Kiên Điện; các bài báo của GS.TSKH Lê Văn Cảm "Những vấn đề lý luận về bảo vệ Quyền con người bằng pháp luật trong lĩnh vực tư pháp hình sự"; bài báo “Thực hiện dân chủ trong

tố tụng hình sự trong bối cảnh cải cách tư pháp ở nước ta hiện nay” của PGS.TS Nguyễn Mạnh Kháng; bài báo "Nguyên tắc suy đoán vô tội" của PGS. TS. Nguyễn Thái Phúc; v.v.

Ngoài ra, một số tác giả nghiên cứu ở các góc độ khác nhau, trong đó phải kể đến: chuyên khảo “Bảo vệ các nhóm dễ bị tổn thương trong tố tụng hình sự” của Trung tâm nghiên cứu quyền con người – quyền công dân và Trung tâm nghiên cứu tội phạm học và Tư pháp hình sự, Khoa Luật Đại học quốc gia Hà Nội năm 2011.

Trên cơ sở kết quả nghiên cứu, khảo sát trên đây cho thấy, ở nước ta đã có một số công trình nghiên cứu cơ bản và trực tiếp về bảo đảm QCN nói chung, bảo đảm QCN trong hoạt động tư pháp. Các công trình nghiên cứu trên đề cập đến nhiều khía cạnh khác nhau về các quy định của pháp luật áp dụng (luật nội dung) đối với một số đối tượng bị hạn chế quyền tự do, nhưng chưa có công trình nào nghiên cứu một cách toàn diện và có hệ thống về bảo đảm QCN của người bị hạn chế quyền tự do trong TTHS Việt Nam. Ðiều này cho thấy sự cần thiết phải tiếp tục nghiên cứu sâu hơn, toàn diện hơn nữa để từng bước hoàn thiện quy định của pháp luật TTHS Việt Nam để bảo vệ quyền cho người bị hạn chế quyền tự do là việc làm cần thiết và có ý nghĩa cả về lý luận và thực tiễn hiện nay.

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

3.1. Mục đích nghiên cứu

Trên cơ sở làm rò những vấn đề lý luận bảo đảm QCN trong TTHS nói chung từ đó đánh giá một cách khách quan thực trạng quy định pháp luật cũng như thực tiễn hoạt động TTHS trong bảo đảm QCN của người bị hạn chế quyền tự do. Làm sáng tỏ những bất cập hạn chế, để đưa ra những kiến nghị và giải pháp tăng cường bảo đảm QCN của người bị hạn chế quyền tự do trong TTHS Việt Nam.

3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

Để đạt được mục đích nghiên cứu trên, trong quá trình nghiên cứu luận văn cần giải quyết những vấn đề sau:

- Làm rò những vấn đề lý luận về QCN, bảo đảm QCN và bảo đảm QCN của người bị hạn chế quyền tự do trong TTHS;

- Phân tích quy định của Bộ luật TTHS Việt Nam liên quan đến bảo đảm QCN của người bị hạn chế quyền tự do và thực tiễn áp dụng các quy định đó; tìm ra những hạn chế và bất cập về bảo đảm QCN của người bị hạn chế quyền tự do trong thực tiễn điều tra, truy tố, xét xử vụ án hình sự.

- Đưa ra những giải pháp nhằm hoàn thiện các quy định của pháp luật TTHS Việt Nam và tăng cường bảo đảm QCN của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo trong hoạt động TTHS.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu đề tài

4.1.Đối tượng nghiên cứu

Ðối tượng nghiên cứu của luận văn là những vấn đề lý luận và thực tiễn bảo đảm QCN của người bị hạn chế quyền tự do trong TTHS Việt Nam.

4.2. Phạm vi nghiên cứu

- Phạm vi không gian: Nghiên cứu phạm vi cả nước liên quan đến bảo đảm QCN của người bị hạn chế quyền tự do.

- Phạm vi thời gian: Thực tiễn tố tụng từ năm 2010 đến tháng 6/2015.

- Phạm vi nội dung: Tập trung chủ yếu vào bảo đảm QCN của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo. Nội dung đảm bảo quyền tập trung vào bảo đảm pháp lý, bao gồm các quy định pháp luật và tổ chức thực hiện pháp luật về QCN của người bị hạn chế quyền tự do trong TTHS.

Luận văn không đi sâu nghiên cứu các bảo đảm khác như bảo đảm về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội.

5. Cơ sở lý luận và các phương pháp nghiên cứu

5.1. Cơ sở lý luận

Cơ sở lý luận của luận văn là quan điểm của Chủ nghĩa Mác – Lê Nin, tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật. Đường lối quan điểm của Đảng và chính sách pháp luật của Nhà nước ta về bảo đảm QCN nói chung và bảo đảm QCN của người bị hạn chế quyền tự do trong TTHS nói riêng.

5.2. Phương pháp nghiên cứu

Đề tài được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận của Chủ nghĩa Mác-

Lênin (duy vật biện chứng và duy vật lịch sử), tư tưởng Hồ Chí Minh và các quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về Nhà nước và Pháp luật, về Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, về bảo đảm QCN. Việc nghiên cứu được thực hiện từ góc độ lý luận chung về QCN nói chung và từ góc độ TTHS nói riêng. Các phương pháp nghiên cứu: Phương pháp hệ thống, phân tích, tổng hợp, lịch sử, logic, thống kê, so sánh pháp luật, xã hội học.

6. Đóng góp khoa học của luận văn

Luận văn là công trình nghiên cứu một cách có hệ thống và tương đối toàn diện về vấn đề bảo đảm QCN của người bị hạn chế quyền tự do trong TTHS ở Việt Nam hiện nay. Vì vậy, luận văn có những đóng góp khoa học mới sau:

- Trên cơ sở hệ thống hoá, phân tích khái niệm QCN, làm rò thêm khái niệm, đặc trưng của QCN trong TTHS.

- Phân tích khái niệm, đặc trưng của bảo đảm QCN.

- Phân tích, làm rò khái niệm, nội dung đảm bảo QCN của những người bị hạn chế quyền tự do theo quy định của luật TTHS.

- Luận văn đánh giá toàn diện tìm ra những nguyên nhân tồn tại thiếu sót của thực trạng đảm bảo QCN của người bị hạn chế quyền tự do theo quy định của luật TTHS ở Việt Nam, đề xuất những quan điểm, giải pháp tăng cường đảm bảo QCN của người bị hạn chế quyền tự do trong TTHS Việt Nam.

7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn

Nội dung và kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần hoàn thiện hệ thống pháp luật và đảm bảo QCN. Ngoài ra luận văn có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo cho việc tăng cường bảo đảm QCN trong TTHS ở Việt Nam hiện nay.

8. Kết cấu của luận văn

Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục, nội dung của Luận văn gồm 03 chương 8 tiết.

Chương 1

LÝ LUẬN VỀ QUYỀN CON NGƯỜI VÀ BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI CỦA NGƯỜI BỊ HẠN CHẾ QUYỀN TỰ DO

TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ


1.1. Nhận thức về quyền con người của người bị hạn chế quyền tự do trong tố tụng hình sự

1.1.1. Khái niệm và phân loại quyền con người

1.1.1.1. Khái niệm quyền con người

Quan niệm về quyền con người, trong lịch sử chính trị- tư tưởng của nhân loại, thuật ngữ QCN (nhân quyền) thường được sử dụng, nhưng cho đến nay chưa có quan niệm thống nhất. Ngay từ thời cổ đại đã có sự bàn luận về các quyền. Tuy nhiên, phải đến thế kỷ XVII, XVIII, quyền con người mới được các nhà tư tưởng bàn đến như một học thuyết.

Khi bàn đến QCN, Jaeque Mourgeon trong cuốn "Các QCN" đã cho rằng: QCN trước hết được hiểu là những đặc quyền tự nhiên mà con người có. Đó là khả năng hành động có ý thức, trách nhiệm nhất là tự bảo vệ. Nhưng bản thân đặc quyền (quyền tự nhiên) chưa phải là QCN. Mà để đạt đến cái gọi là "quyền" thì phải có yếu tố thứ hai là pháp luật. Chỉ khi được pháp luật ghi nhận thì các đặc quyền của cá nhân mới trở thành đối tượng điều chỉnh của pháp luật và như vậy mới trở thành QCN.

Trên cơ sở quan niệm đúng đắn và khoa học về con người, C. Mác đã xác định con người là một thực thể thống nhất, một “sinh vật – xã hội”. Do đó, QCN là sự thống nhất biện chứng giữa “quyền tự nhiên” (như một đặc quyền vốn có và chỉ con người mới có) và “quyền xã hội” – sự chế định bằng các quy chế pháp lý nhằm điều chính các mối quan hệ xã hội. Vì vậy trong điều kiện ngày nay, việc đưa ra khái niệm đúng đắn về QCN phải giải quyết được các quan hệ giữa cá nhân với xã hội, giữa tính nhân loại với tính giai cấp, giữa các giá trị đạo đức với pháp luật và quyền lực, giữa quan hệ quốc tế với lợi ích quốc gia, giữa khả năng và nhu cầu tự nhiên với những nỗ lực chủ quan.

Năm 1776, lần đầu tiên các QCN được ghi nhận trong Tuyên ngôn độc lập của Mỹ: "Tất cả mọi người sinh ra đều có quyền bình đẳng, tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được, trong đó có quyền sống, quyền tự do và mưu cầu hạnh phúc". Năm 1791, trong Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền Pháp, QCN tiếp tục được xác định: "Người ta sinh ra tự do và bình đẳng về quyền lợi và phải được tự do bình đẳng về quyền lợi"... Từ đó các tiêu chí về QCN từng bước được các quốc gia thừa nhận và quy định trong pháp luật của nước mình.

Về khái niệm QCN, ở cấp độ quốc tế, có một định nghĩa của Văn phòng Cao ủy Liên hợp quốc về QCN (Office of High Commissioner for Human Rights – OHCHR) thường được trích dẫn bởi các nhà nghiên cứu. Theo định nghĩa này, QCN là những bảo đảm pháp lý toàn cầu (universal legal guarantees) có tác dụng bảo vệ các cá nhân và các nhóm chống lại những hành động (actions) hoặc sự bỏ mặc (omissions) mà làm tổn hại đến nhân phẩm, những sự được phép (entitlements) và tự do cơ bản (fundamental freedoms) của con người.

Bên cạnh định nghĩa kể trên, một định nghĩa khác cũng thường được trích dẫn, theo đó, QCN là những sự được phép (entitlements) mà tất cả thành viên của cộng đồng nhân loại, không phân biệt giới tính, chủng tộc, tôn giáo, địa vị xã hội...; đều có ngay từ khi sinh ra, đơn giản chỉ vì họ là con người. Định nghĩa này mang dấu ấn của học thuyết về các quyền tự nhiên. Trong ý nghĩa ban đầu, thuyết pháp luật tự nhiên ra đời nhằm đáp ứng nhu cầu tự do của con người; khẳng định QCN là tự nhiên, vốn có, nhằm đối lập, phủ nhận quan niệm QCN tự do vương quyền và thần quyền ban phát, tặng cho quyền tự nhiên.

Ở nước ta, vấn đề QCN đã được nghiên cứu và phản ánh một cách phong phú và đa dạng thể hiện trong các tài liệu, văn kiện của Đảng, Nhà nước và các văn bản pháp luật.

Theo Từ điển tiếng Việt 1992 thì quyền là “điều mà pháp luật hoặc xã hội công nhận cho được hưởng, được làm, được đòi hỏi”.

Theo Từ điển giải thích thuật ngữ pháp lý thông dụng: "QCN là các quyền tất yếu mà con người phải được hưởng và các quốc gia phải tôn trọng".

Xem tất cả 143 trang.

Ngày đăng: 28/06/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí