Bàn về hoạt động đầu tư trong doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ - 1


LUẬN VĂN:


Bàn về hoạt động đầu tư trong doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ


Lời mở đầu


Trong nền kinh tế, các trung gian tài chính bảo hiểm là một kênh huy động vốn đầu tư không thể thiếu và đầy tiềm năng. Bảo hiểm nhân thọ dài hạn vừa là nguồn bổ sung vốn đầu tư phát triển, vừa là biện pháp bảo vệ an ninh quốc gia, đảm bảo và ổn định đời sống kinh tế - xó hội ở mỗi nước.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 60 trang tài liệu này.

Thị trường bảo hiểm bùng nổ, vấn đề đầu tư tài chính của doanh nghiệp bảo hiểm đã và đang trở thành vấn đề sống còn, nhất là đối với doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ.

Đầu tư tài chính hiệu quả giúp doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ bảo toàn quỹ tài chính bảo hiểm, góp phần nâng cao tiềm lực tài chính và đứng vững trong cạnh tranh. Thêm nữa, thu nhập từ đầu tư tài chính còn là nguồn để doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ thực hiện các cam kết với khách hàng, nâng cao tính hấp dẫn của các sản phẩm bảo hiểm nhân thọ.Trên thế giới, các công ty bảo hiểm nhân thọ lớn coi đầu tư tài chính là hoạt động mang lại thu nhập chính và luôn được coi trọng.

Bàn về hoạt động đầu tư trong doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ - 1

Có thể nói hoạt động đầu tư của DNBH nhân thọ có vai trò rất lớn không những đối với DNBH nhân thọ mà còn đối với toàn bộ tư tài chính của nền kinh tế.

Với ý nghiã đó, em chọn đề tài

" Bàn về hoạt động đầu tư trong doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ "

Cấu trúc của bài viết gồm ba phần:

Phần I: Lý luận chung về hoạt động đầu tư của doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ.

Phần II: Thực trạng hoạt động đầu tư của một số doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ trên thị trường bảo hiểm Việt Nam

Phần III: Một số kiến nghị và giải pháp


I.lý luận chung


1.lý luận chung về hoạt động đầu tư trong doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ : 1.1.Khái niệm về hoạt động đầu tư trong doanh nghiệp bảo hiểm

Bảo hiểm là sự chia nhỏ tổn thất của một số ít người cho nhiều người có cùng khả năng gặp phải những rủi ro tương tự bằng cách thu của họ một khoản tiền gọi là phí bảo hiểm để hình thành nên quỹ tài chính bảo hiểm từ đó bồi thường (chi trả) cho họ những thiệt hại về tài chính do rủi ro bất ngờ gây nên .

Sơ đồ 1:Cơ chế hoạt động của doanh nghiệp bảo hiểm .


Phí bảo

Quỹ tài

Chi

Qlý

Người tham gia Bảo hiểm

Người tham gia BH gặp rủi ro


Người Bảo Hiểm

Đặc thù của hoạt động kinh doanh bảo hiểm là "sự đảo ngược của chu kỳ sản xuất kinh doanh". Việc tiêu thụ sản phẩm dựa trên quy trình: phí bảo hiểm được thu trước, còn cam kết trả tiền bảo hiểm được thực hiện sau. Giá trị sử dụng của sản phẩm bảo hiểm chỉ được thực hiện sau khi mua một khoảng thời gian nhất định. Như vậy doanh nghiệp bảo hiểm (DNBH) có trong tay một quỹ tài chính tập trung khá lớn, nhưng quỹ này sẽ không được sử dụng để bồi thường ngay nên DNBH có thể sử dụng lượng tiền nhàn rỗi này để đầu tư .

Như vậy: Đầu tư tài chính của một doanh nghiệp bảo hiểm là việc doanh nghiệp bảo hiểm sử dụng các nguồn vốn nhàn rỗi để đầu tư vào các lĩnh vực đầu tư theo luật định. Mỗi nước khác nhau thì có những quy định khác nhau về lĩnh vực đầu tư của DNBH.

1.2.Đặc điểm của hoạt động đầu tư trong doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ:

Đối với doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ, hoạt động đầu tư quỹ tài chính rất phức tạp do sản phẩm bảo hiểm nhân thọ cũng đa dạng và phức tạp hơn, lại thêm cạnh tranh khốc liệt trên thị trường.Hợp đồng bảo hiểm nhân thọ thường là hợp đồng dài hạn nên hoạt động đầu tư của doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ có một số đặc trưng cơ bản sau:

Một đặc điểm chung của hoạt động đầu tư của doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ là chịu tác động rất lớn của những thay đổi về lãi suất và lạm phát do nguồn vốn đem đầu tư thường là dài hạn.

Do tính chất dài hạn của các hợp đồng bảo hiểm nhân thọ và nhu cầu chi có thể dự đoán được một cách khá chính xác nên các quỹ bảo hiểm nhân thọ thường đầu tư vào các loại chứng khoán dài hạn.

Quy mô các quỹ bảo hiểm nhân thọ lớn hơn các quỹ bảo hiểm phi nhân thọ xét dưới góc độ phí bảo hiểm.

Thu nhập của công ty bảo hiểm nhân thọ thường lớn hơn các khoản chi và tất cả các khiếu nại có thể được thanh toán từ phí bảo hiểm và thu nhập từ đầu tư trong năm. Do vậy, DNBH nhân thọ ít có nhu cầu đầu tư vào chứng khoán ngắn hạn.

Theo nghiên cứu của các chuyên gia tính toán thì một hợp đồng bảo hiểm phù hợp với công ty bảo hiểm nhân thọ là một hợp đồng mà ngày thanh toán đáo hạn của hợp đồng trùng với ngày thanh toán đáo hạn của hạng mục đầu tư.

Đầu tư nước ngoài của quỹ bảo hiểm nhân thọ thường ít hơn bảo hiểm phi nhân thọ.

Bảo hiểm nhân thọ có tính tiết kiệm nên việc đầu tư có ảnh hưởng lớn đến khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp bảo hiểm trên thị trường.

1.3.Vai trò của hoạt động đầu tư trong DNBH nhân thọ.

1.3.1.Đối với doanh nghiệp bảo hiểm :

DNBH không chỉ có nhiệm vụ thu chi quỹ tài chính bảo hiểm mà còn phải phát triển quỹ tài chính này. Đầu tư tài chính nguồn vốn nhàn rỗi có ý nghĩa quan trọng cho sự

tồn tại và phát triển của doanh nghiệp bảo hiểm. Đầu tư có hiệu quả chính là phát triển quỹ tài chính của DNBH.

-Hoạt động đầu tư có ảnh hưởng trực tiếp đến năng lực tài chính và khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp bảo hiểm trên thị trường. Tỷ suất lợi nhuận đầu tư cao sẽ giúp doanh nghiệp bảo hiểm có điều kiện giảm phí bảo hiểm, từ đó tạo lợi thế so với đối thủ cạnh tranh.

- Chiến lược thiết kế và bán sản phẩm của doanh nghiệp cũng bị chi phối bởi hoạt động đầu tư thông qua việc định giá các sản phẩm bảo hiểm, mở rộng phạm vi trách nhiệm cũng như tăng thêm quyền lợi cho khách hàng.

-Hoạt động đầu tư đóng góp vào sự tăng trưởng thu nhập và lợi nhuận của của doanh nghiệp bảo hiểm, từ đó giúp doanh nghiệp bảo hiểm mở rộng quy mô, tăng thêm thu nhập cho người lao động. Đồng thời còn giúp các doanh nghiệp bảo hiểm bù đắp sự mất giá của đồng tiền, bảo toàn quỹ tài chính bảo hiểm trước rủi ro lạm phát .

Ngoài ra, hoạt động đầu tư còn có một số ý nghĩa khác như : giúp doanh nghiệp khuếch trương quảng cáo thông qua đầu tư bất động sản hoặc tạo thêm khách hàng cho doanh nghiệp thông qua hoạt động cho vay (khi người vay mua bảo hiểm tại công ty).

1.3.2.Đối với doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ :

Nếu như trong doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ, thu nhập từ hoạt động đầu tư tài chính giúp doanh nghiệp bù đắp các chi phí kinh doanh,có điều kiện để giảm phí bảo hiểm, tăng khả năng ký kết hợp đồng bảo hiểm, nâng cao mức giữ lại trong các hợp đồng tái bảo hiểm, từ đó ổn định và nâng cao kết quả kinh doanh thì trong doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ, đầu tư quỹ dự phòng là sự bắt buộc vì tính chất kỹ thuật của nghiệp vụ bảo hiểm này. Nếu các doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ không đầu tư hoặc thu nhập từ hoạt động đầu tư không đủ lớn để bù đắp các khoản "nợ tiết kiệm" đối với người được bảo hiểm thì doanh nghiệp bảo hiểm sẽ lâm vào tình trạng thua lỗ ; trầm trọng hơn có thể dẫn tới phá sản. Như vậy có thể nói đầu tư là một hoạt động có vai trò sống còn đối với việc tồn tại và phát triển của doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ.

Hoạt động đầu tư trong doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ cũng có những vai trò quan trọng như các doanh nghiệp bảo hiểm nói chung. Ngoài ra nó còn thể hiện một số nét quan trọng sau :

-Hoạt động đầu tư giúp họ thực hiện các nghĩa vụ tài chính của mình đối với người tham gia bảo hiểm. Bởi vì bảo hiểm nhân thọ không chỉ có tính rủi ro mà còn có tính tiết kiệm. Do đó việc đầu tư có hiệu quả không đơn thuần là phát triển quỹ tài chính mà còn là trách nhiệm của DNBH để đảm bảo cho khách hàng được trả lãi.

-Thu nhập từ đầu tư là nguồn tài chính để doanh nghiệp bảo hiểm thực hiện các cam kết với khách hàng, tăng các khoản lợi tức chia thêm cho các hợp đồng bảo hiểm, qua đó nâng cao tính hấp dẫn cho các sản phẩm bảo hiểm nhân thọ.

-Đầu tư giúp DNBH nhân thọ bù đắp sự mất gía của đồng tiền, bảo toàn quỹ tài chính trước rủi ro lạm phát, đảm bảo khả năng chi trả của doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ trong tương lai .


2.Nguyên tắc đầu tư của doanh nghiệp bảo hiểm


Hoạt động đầu tư của doanh nghiệp bảo hiểm được ví như một "cánh tay" của doanh nghiệp bảo hiểm cùng với "cánh tay" kinh doanh trực tiếp. Trong môi trường cạnh tranh quyết liệt để đảm bảo đầu tư an toàn và hiệu quả doanh nghiệp bảo hiểm cần tuân thủ những nguyên tắc cơ bản sau :

2.1.Nguyên tắc an toàn

Nguyên tắc này được đặt ra nhằm hạn chế tối đa rủi ro trong đầu và bảo toàn nguồn vốn sử dụng.

Hoạt động đầu tư luôn đứng trước những rủi ro như :

Rủi ro về lãi suất

Rủi ro tín dụng

Rủi ro thị trường

Rủi ro tiền tệ

Rủi ro biến động giá trong đầu tư chứng khoán .

Khi tiến hành hoạt động đầu tư, các doanh nghiệp bảo hiểm cần chú ý đến tất cả những rủi ro trên để hoạt động đầu tư được hiệu quả hơn.

Trước những rủi ro đó việc đảm bảo an toàn vốn là rất quan trọng , nó đảm bảo khả năng thanh toán của doanh nghiệp bảo hiểm, tạo lòng tin cho khách hàng từ đó tăng thêm uy tín

cho doanh nghiệp. Nguyên tắc này yêu cầu doanh nghiệp bảo hiểm phải đa dạng hoá danh mục đầu tư của mình nhằm phân tán và giảm thiểu những rủi ro có thể gặp phải.

Nguyên tắc an toàn được pháp luật thể chế bằng việc quy định danh mục đầu tư với những lĩnh vực có mức độ rủi ro đầu tư thấp.Cụ thể như sau :

Điều 98,Luật kinh doanh bảo hiểm ban hành năm 2000 quy định doanh nghiệp bảo hiểm được đầu tư vào những lĩnh vực sau:

Mua trái phiếu chính phủ;

Mua cổ phiếu, trái phiếu doanh nghiệp;

Kinh doanh bất động sản;

Góp vốn vào các doanh nghiệp khác;

Cho vay theo quy định của Luật các tổ chức tín dụng;

Gửi tiền tại các tổ chức tín dụng (trích điều 98-Luật kinh doanh bảo hiểm)

2.2.Nguyên tắc sinh lời:

Một trong những mục tiêu quan trọng của hoạt động đầu tư là tạo ra lợi nhuận.Lợi nhuận cao là mục tiêu của tất cả mọi doanh nghiệp khi tham gia kinh doanh trên thị trường. Với doanh nghiệp bảo hiểm, lợi nhuận là rất cần thiết giúp doanh nghiệp tăng cường sức mạnh tài chính, đứng vững trong cạnh tranh và thực hiện các chiến lược của mình. Lợi nhuận tạo ra từ hoạt động đầu tư sẽ giúp doanh nghiệp bảo hiểm có điều kiện giảm phí và mở rộng phạm vi bảo hiểm.

Tóm lại đây là kết quả cuối cùng mà doanh nghiệp bảo hiểm theo đuổi . Tuy nhiên, muốn thu được tỷ suất lợi nhuận cao thì rủi ro khi đầu tư cũng tăng theo. Vì vậy nhà quản lý đầu tư cần nghiên cứu sao cho hoạt động đầu tư vừa đảm bảo nguyên tắc an toàn lại vừa đem lại mức lợi nhuận như mong muốn.

2.3.Nguyên tắc đảm bảo khả năng thanh toán thường xuyên.

Khả năng thanh toán là khả năng mà doanh nghiệp bảo hiểm có thể sử dụng các tài sản của mình để đáp ứng các trách nhiệm thanh toán đã đến hạn. Do các khiếu nại của các DNBH rất khó dự đoán nên họ phải giữ một tỷ lệ đầu tư nhất định vào các hạng mục đầu tư có tính thanh khoản cao để đảm bảo thanh toán ngay khi cần thiết.

Song song với mục tiêu lợi nhuận là mục tiêu đảm bảo khả năng thanh toán.Thực tế hai mục tiêu này thường có sự đánh đổi lẫn nhau: Khi doanh nghiệp bảo hiểm muốn tăng lợi nhuận thì phải chấp nhận tăng khả năng rủi ro, nếu rủi ro thực tế xảy ra thì khả năng thanh toán của doanh nghiệp sẽ bị đe doạ. Do đó việc đầu tư của doanh nghiệp bảo hiểm phải đảm bảo có tính thanh khoản hợp lý vì doanh nghiệp bảo hiểm có thể phải thanh toán cho khách hàng bất kỳ lúc nào khi có sự kiện bảo hiểm xảy ra.

Tất cả các nguyên tắc đầu tư cần được áp dụng một cách linh hoạt tuỳ thuộc vốn đầu tư được hình thành từ nguồn nào.

Đầu tư của doanh nghiệp bảo hiểm từ các nguồn vốn nợ (như các quĩ Dự phòng nghiệp vụ

) phải tuân thủ hết sức nghiêm ngặt các nguyên tắc đầu tư trên. Bởi vì đây không phải là tiền của doanh nghiệp bảo hiểm mà là khoản nợ của doanh nghiệp đối với khách hàng.

Các nguyên tắc đầu tư trên đòi hỏi các doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ cần đa dạng hoá các hạng mục đầu tư của mình, có chiến lược đầu tư thích hợp với quy mô của doanh nghiệp cũng như phù hợp với điều kiện thị trường.

3.Nguồn vốn đầu tư của doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ :

Xem tất cả 60 trang.

Ngày đăng: 24/03/2024
Trang chủ Tài liệu miễn phí