Thực Trạng Đầu Tư Vốn Của Một Số Doanh Nghiệp Bảo Hiểm Nhân Thọ Việt Nam

thị trường 1998 - 2002


Nhân thọ Phi nhân thọ

Tổng doanh thu phíbảo hiểm toàn thịtrư ờng

1998­2002

Tỷ VND


8000


7000


6000

4615

5000


4000

2778

3000

1289

2000


1000

203

1664

484

3070

1593

1786

2162

0

1998

1999

2000

2001

2002

Nă m



(Nguồn: Thông tin thị trường bảo hiểm-tái bảo hiểm - Vinare)

.

Trong bối cảnh nền kinh tế đất nước tiếp tục ổn định và phát triển với mức tăng

trưởng GDP 7,04%, thị trường bảo hiểm Việt Nam năm 2002 tiếp tục duy trì tốc độ tăng trưởng cao: Tổng phí bảo hiểm nhân thọ và phi nhân thọ ước tính đạt 7685 tỷ VND, tăng 55% so với năm 2001 và chiếm 1,4% GDP trong đó tổng phí bảo hiểm nhân thọ đạt 4.615 tỷ VND, tăng trên 66% so với năm 2001.

Kết quả nói trên của thị trường bảo hiểm Việt Nam đạt được trong bối cảnh thị trường quốc tế có nhiều biến động, kết quả kinh doanh của nhiều tập đoàn bảo hiểm trên thế giới đều giảm do tình hình tổn thất xấu và kết quả đầu tư yếu kém. Trong tình hình đó, các DNBH Việt Nam một mặt vẫn tiếp tục mở rộng thị trường, nâng cao chất lượng phục vụ; mặt khác vẫn đảm bảo an toàn tài chính cho hoạt động kinh doanh của mình.

Vốn của toàn thị trường trong vòng 6 năm qua cũng có nhiều thay đổi theo chiều hướng tích cực. Năm 1999 có 979 tỷ đồng, đến năm 2001 đạt 1754 tỷ đồng trong đó bảo hiểm nhân thọ đóng vai trò không nhỏ. Phân tích tỷ trọng vốn của toàn thị trường cho thấy vốn của các DNBH nhà nước hiện vẫn chiếm tỷ trọng lớn, tiếp theo là các công ty bảo

hiểm 100% vốn nước ngoài, tiếp theo là các công ty bảo hiểm liên doanh và cuối cùng mới là các công ty cổ phần bảo hiểm . Nguồn dự phòng nghiệp vụ bảo hiểm cũng tăng mạnh từ 198 tỷ đồng năm1994 lên đến 4130 tỷ đồng năm 2001.

Với sự tăng trưởng doanh thu mạnh mẽ như vậy, các DNBH nhân thọ Việt Nam đã và đang có vai trò quan trọng trong việc đầu tư trở lại nền kinh tế đất nước. Với nguồn vốn tích luỹ được, trong những năm tới đây, các công ty bảo hiểm nhân thọ sẽ tập trung vào việc đầu tư trở lại nền kinh tế trong các dự án lớn trung và dài hạn. Từ đây trở đi, các ưu thế về tiềm lực tài chính của các công ty bảo hiểm sẽ được thể hiện rõ trong nền kinh tế Việt Nam

Bảng 2: Giá trị đầu tư trở lại nền kinh tế của toàn thị trường bảo hiểm Việt Nam giai đoạn 1996-2002:


Năm

1995

1996

1997

1998

1999

2000

2001

2002

Giá trị đầu tư trở lại (tỷ đ)

74

137

977

1.446

1.672

2.704

4.482

7397

Tốc độ tăng

trưởng(%)

-

85,14

613,1

4

48,00

15,63

61,72

65,77

5

64,91

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 60 trang tài liệu này.

Bàn về hoạt động đầu tư trong doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ - 4

(Nguồn: Bộ tài chính)

Thị trường bảo hiểm nhân thọ Việt Nam đang chứng kiến sự phát triển ngoạn mục, đặc biệt là ở khu vực các doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ có vốn đầu tư nước ngoài. Cũng trong năm 2002, các công ty bảo hiểm nhân thọ trên thị trường đồng loạt gia tăng vốn hoạt động : Prudential hiện đã tăng vốn điều lệ lên đến 71 triệu USD, Bảo Minh_CMG và Manulife có mức vốn 10 triệu USD, AIA có mức vốn điều lệ 25 triệu USD. Tổng số vốn đăng ký thêm của các công ty so với mức vốn đăng ký ban đầu đã lên đến 57,3 triệu USD. Sự gia tăng vốn hoạt động này một mặt để đáp ứng theo quy định của Luật kinh doanh bảo hiểm, mặt khác thể hiện tiềm năng to lớn của thị trường bảo hiểm nhân thọ ở Việt Nam. Việc gia tăng vốn đã giúp cho các công ty bảo hiểm có thêm tiềm lực tài chính, mở rộng hoạt động, quan hệ khách hàng và mở rộng đầu tư. Tuy nhiên cũng đặt các doanh nghiệp bảo hiểm nhà nước vào tình trạng cạnh tranh ngày càng khó khăn hơn.

Trong những năm gần đây, các DNBH Việt Nam đã chú trọng cải thiện công tác đầu tư tài chính: Một loạt các biện pháp mang tính chiều sâu được thực hiện nhằm đảm bảo lựa chọn được các dự án đầu tư thích hợp, an toàn cho nguồn vốn và mang lại hiệu quả kinh tế cao như: góp vốn liên doanh, tham gia thành lập công ty cổ phần, tham gia các dự án đầu tư , cho vay, gửi tiết kiệm tại ngân hàng,đầu tư chứng khoán...

Hoạt động đầu tư tài chính của các công ty bảo hiểm nhân thọ cũng được đa dạng hoá hơn so với trước. Các công ty bảo hiểm nhân thọ không chỉ dừng lại ở đầu tư trái phiếu Chính phủ dài hạn mà đã mở rộng sang lĩnh vực chứng khoán, xây dựng cơ bản,dịch vụ( khách sạn, ngân hàng, vui chơi giải trí , xây dựng cơ bản, cơ sở hạ tầng, công nghiệp nặng, giao thông vận tải) v.v

Tuy nhiên cơ cấu đầu tư của các doanh nghiệp bảo hiểm ở Việt Nam vẫn còn đơn điệu, đầu tư tập trung chủ yếu vào những công cụ đầu tư có tính thanh khoản cao để đáp ứng kịp thời nhu cầu thanh toán thường xuyên. Do vậy mà hiệu quả đầu tư còn khiêm tốn. Hình thức đầu tư chủ yếu là gửi tiền vào các ngân hàng thương mại để hưởng lãi ( chiếm trên 50%). Trong khi tỷ lệ này ở các nước phát triển như Anh, Pháp, Đức chỉ chiếm từ 1,1

- 1,9%. Kinh doanh chứng khoán được coi là công cụ đầu tư quan trọng thứ hai của các DNBH ở Việt Nam mới chỉ chiếm tỷ trọng trên 20%. Trong khi đó, ở hầu hết các nước, đây là công cụ đầu tư một cách rộng rãi nhất, ví như ở Pháp chiếm tới 92,4%, ở Anh chiếm 84,7% tổng giá trị đầu tư của các DNBH.

Biểu 3: Cơ cấu đầu tư của các DNBH nhân thọ phân theo loại hình đầu tư năm 2002


Đ ầu t- chứng khoá n

Bất động sản Cho vay

Góp vốn liê n doanh

Gửi tiền tạ i ngân hàng

(Nguồn : Tạp chí tài chính )

Xu hướng đầu tư chung của các DNBH nhân thọ trong những năm gần đây vẫn là đầu tư gián tiếp thông qua gửi ngân hàng, đầu tư vào chững khoán. Hoạt động đầu tư trực tiếp của các DNBH dưới hình thức góp vốn liên doanh, đầu tư bất động sản còn khá khiêm tốn.

Sự phát triển sôi động của thị trường bảo hiểm nhân thọ Việt Nam trong những năm qua tiếp tục dự báo một tương lai phát triển mạnh mẽ của ngành bảo hiểm nhân thọ. Cùng với sự tăng trưởng và phát triển kinh tế đất nước, thu nhập của người dân cũng sẽ tăng lên, nhận thức về BHNT ngày càng trở nên rõ ràng và cần thiết.

Bên cạnh những kết quả đạt được, hoạt động bảo hiểm còn tồn tại rất nhiều vấn đề. Đó là phạm vi và quy mô của thị trường vẫn còn nhỏ ,chưa tương xứng với tiềm năng và khả năng phát triển của nền kinh tế xã hội; mức độ đáp ứng nhu cầu bảo hiểm của nền kinh tế xã hội còn hạn chế; một số lĩnh vực có nhu cầu bảo hiểm cao nhưng chưa được triển khai hoặc chỉ đạt tỷ lệ khai thác thấp. Ví dụ như bảo hiểm nông nghiệp mới chỉ triển khai thực hiện được trên 0,08% diện tích cây trồng và 0,1% vật nuôi; bảo hiểm tai nạn con người ,bảo hiểm học sinh -sinh viên mới chỉ đạt có 39%. Bảo hiểm nhân thọ tuy tăng trưởng nhảy vọt nhưng cũng mới chỉ tiếp cận có 2% dân số .

Tuy nhiên là một quốc gia đông dân, Việt Nam rất có tiềm năng về bảo hiểm nhân thọ. Tính đến năm 2001, dân số Việt Nam có khoảng 80 triệu người nhưng mới chỉ có khoảng 1 triệu người tham gia bảo hiểm nhân thọ. Hiện nay có khoảng 2% dân số tham gia bảo hiểm nhân thọ, tập trụng chủ yếu ở Hà Nội và TP HCM- Đây là một tiềm năng rất lớn cho thị trường bảo hiểm nhân thọ Việt Nam.

Đến năm 2010, thị trường bảo hiểm sẽ được phát triển nhanh và có hiệu quả với đầy đủ các yếu tố của thị trường để đa dạng hoá các loại hình nghiệp vụ bảo hiểm với chất lượng cao, góp phần đảm bảo an toàn cho nền kinh tế, thu hút nguồn vốn cho đầu tư phát triển. Dự báo, số DNBH sẽ còn tăng thêm thích hợp theo thời gian và điều kiện tình hình, doanh thu bảo hiểm sẽ tăng từ 0,95%GDP lên khoảng 2%GDP năm 2005 và từ 2,8%-3% vào năm 2010. Mức tăng trưởng bình quân chung khoảng 20 -25% một năm,trong đó bảo hiểm nhân thọ trong những năm 2001-2005 sẽ tiếp tục tăng trưởng nhanh với tốc độ được dự đoán từ 25-40% và sẽ ổn định dần vào những năm sau ở mức 27-29% /năm. Mục tiêu này chính là nhằm nhanh chóng tăng tỷ lệ đóng góp của ngành bảo hiểm vào GDP, nâng cao vai trò của ngành trong việc ổn định đời sống xã hội, phát triển kinh tế đất nước.

Bảng 3: Một số chỉ tiêu dự báo tăng mức phí bảo hiểm giai đoạn 2001 - 2010



Dự báo tăng mức phí bảo hiểm giai đoạn 2001-2010.

Năm

2001

2002

2003

2004

2005

2010

BH phi nhân thọ(tỷ đ)

2158

2470

2860

3300

3800

7500

Tốc độ (%)

21,0

14,7

15,0

15,0

15,0

-

Tỷ trọng/ tổng phí(%)

43,72

39,44

36,38

32,00

28,57

28,3

BH nhân thọ(tỷ đ)

2778

3800

5000

7000

9500

19000

Tốc độ tăng trưởng (%)

116,2

36,78

31,58

40,0

35,7

-

Tỷ trọng/tổng phí(%)

56,28

60,56

63,62

68,0

71,43

71,7

Tổng phí bảo hiểm(tỷ đ)

4936

6270

7860

10300

13300

26500

Tốc độ tăng trưởng(%)

61,78

27

25,35

31

29,13

-

Tỷ trọng/GDP(%)

0,97

-

-

-

2,0

3,0


(Nguồn:Vinare)


II.Thực trạng đầu tư vốn của một số doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ việt nam


1.Thực trạng đầu tư vốn của công ty bảo hiểm nhân thọ Bảo Việt

Do hiện nay Bảo Việt là DNBH chiếm thị phần lớn trên thị trường bảo hiểm Việt Nam, hơn nữa trong phạm vi bài viết còn nhỏ và nguồn số liệu hạn chế, em xin được tập trung trình bày về thực trạng đầu tư của công ty bảo hiểm nhà nước Bảo Việt.

Tổng công ty bảo hiểm Việt Nam viết tắt là Bảo Việt là doanh nghiệp bảo hiểm được Nhà nước xếp hạng đặc biệt. Hoạt động trong cả hai lĩnh vực nhân thọ và phi nhân thọ, Bảo Việt có phạm vi hoạt động rộng khắp trên toàn quốc. Bảo Việt có trên 40 triệu lượt khách hàng mỗi năm, có gần 5000 nhân viên và có hàng chục ngàn đại lý. Hiện nay Bảo Việt có 126 chi nhánh đơn vị thành viên, trong đó có 56 công ty bảo hiểm nhân thọ.

Năm 2002 hoạt động đầu tư tài chính chiếm 376 tỷ trên tổng số 2165 tỷ đồng doanh thu phí bảo hiểm nhân thọ của Bảo Việt .

Các lĩnh vực đầu tư vốn Bảo Việt cũng tương đối đa dạng, với những tỷ lệ bỏ vốn khác nhau vào từng lĩnh vực. Cùng với sự tăng lên của doanh thu phí là sự tăng trưởng cao của nguồn quỹ dự phòng kỹ thuật -một trong những nguồn vốn đầu tư chính của các DNBH .

Tốc độ tăng các quỹ dự phòng kỹ thuật của Bảo Việt xấp xỉ 19% qua các năm. Các quỹ dự phòng kỹ thuật chiếm đến khoảng 60% nguồn vốn của Bảng cân đối kế toán của doanh nghiệp này.

Danh mục đầu tư của Bảo Việt

Bảng 4: Một số danh mục đầu tư chính của Bảo Việt



Danh mục

1997

1998

1999

1.Chứng khoán

231.600

306.100

320.900

2.Bất động sản

1.800

1.800

1.800

3.Cho vay

30.200

28.200

69.300

4.Gửi tiền

335.800

450.000

1.001.600

5.Góp vốn liên doanh

46.200

50.700

119.900

6.Đầu tư khác

5000

6.000

7.500

Tổng cộng

871.100

837.400

1.521.000


(Nguồn: Tạp chí nghiên cứu kinh tế)

Danh mục đầu tư trên cho thấy : đầu tư vào gửi tiền tại các ngân hàng chiếm tỷ trọng lớn nhất trong cơ cấu vốn đầu tư. Năm 1997 chiếm 38,5%, năm 1998 chiếm 54% và đến năm 1999 đã tăng lên đến 66%. Đầu tư chứng khoán mà chủ yếu là mua trái phiếu,kỳ phiếu, trái phiếu kho bạc nhà nước, công trái nhà nước, kỳ phiếu của các ngân hàng cũng chiếm tỷ trọng vốn lớn. Lĩnh vực đầu tư ít được Bảo Việt quan tâm chú ý và thực tế bỏ vốn rất nhỏ là kinh doanh bất động sản:

Các DNBH nhân thọ ít đầu tư vào bất động sản là vì thị trường bất động sản ở nước ta hiện nay có quá nhiều rủi ro và rất bất ổn định. Thêm nữa chính sách và luật pháp của Nhà nước cũng chưa thực sự ổn định.

ở các nước có ngành bảo hiểm nhân thọ phát triển thì các công ty bảo hiểm nhân thọ cũng là những chuyên gia về đầu tư. Danh mục đầu tư của các công ty này rất đa dạng và thường thì lãi suất thu được từ các hoạt động đầu tư cao hơn lãi suất ngân hàng. Lãi suất đầu tư thực tế của của các công ty bảo hiểm nhân thọ Nhật Bản trong năm 1995 là 3,36%, năm 1997 là 2,48%; trong khi đó lãi suất trái phiếu dài hạn của chính phủ chỉ là 2,56%/ năm. Ơ Việt Nam, do thị trường vốn chưa phát triển (Trung tâm giao dịch chứng khoán mới chỉ chính thức khai trương từ ngày 20/7/2000 ) do vậy các khoản đầu tư của Bảo Việt tập trung chủ yếu ở loại hình tiền gửi ngân hàng, còn các lĩnh vực đầu tư khác chiếm tỷ trọng thấp hơn.

Một số hoạt động đầu tư của Bảo Việt:

* Sự tham gia của Bảo Việt vào thị trường chứng khoán.

Xu hướng chung của các công ty bảo hiểm là phát triển các dịch vụ về tài chính - tín dụng để sử dụng có hiệu quả các quỹ bảo hiểm nhàn rỗi tập trung và hỗ trợ cho hoạt động kinh doanh bảo hiểm. Vì tính ưu việt của thị trường chứng khoán và các dịch vụ của nó nên phát triển dịch vụ tài chính -tín dụng thông qua thị trường chứng khoán được coi là phổ biến nhất đối với các công ty bảo hiểm. Đối với Bảo Việt, việc đầu tư vào chứng khoán đã được chú trọng. Ngày 19/5/2000, công ty cổ phần chứng khoán Bảo Việt đã khai trương tại Hà Nội; và khai trương chi nhánh ở TP HCM vào ngày 22/5/2000 và trở thành một trong những công ty chứng khoán đầu tiên hoạt động tại Việt Nam.

Bảo Việt tham gia vào thị trường chứng khoán với nhiều lợi thế, thể hiện ở nguồn vốn cần thiết để thành lập công ty chứng khoán cũng như nguồn vốn để đầu tư thông qua thị trường chứng khoán; ngoài những lợi thế về vốn, Bảo Việt còn có lợi thế về mạnglưới và hệ

thống khách hàng bảo hiểm, về kinh nghiệm, uy tín hoạt động trong lĩnh vực tài chính. Với những lợi thế đó Công ty chứng khoán Bảo Việt đã tiến hành kinh doanh cả 5 nghiệp vụ trên thị trường chứng khoán, đó là:

Môi giới chứng khoán

Là hoạt động giúp khách hàng đầu tư và giao dịch chứng khoán. Thực hiện các lệnh giao dịch cho khách hàng trên sàn giao dịch hay Sở giao dịch.

Bảo lãnh phát hành chứng khoán

Công ty chứng khoán chấp nhận rủi ro, cam kết bao mua chứng khoán của công ty phát hành, sau đó bán cho các nhà giao dịch và công chúng.

Quản lý danh mục đầu tư vào chứng khoán

Hoạt động quản lý danh mục đầu tư chứng khoán là hoạt động quản lý vốn của khách hàng thông qua việc mua bán và nắm giữ các chứng khoán vì quyền lợi của khách hàng. Công ty chứng khoán sẽ được hưởng phí quản lý danh mục đầu tư của khách hàng.

Tư vấn đầu tư chứng khoán

Là việc công ty chứng khoán tư vấn cho các doanh nghiệp hay các nhà đầu tư về việc thiết kế chứng khoán phù hợp với mục tiêu tăng vốn của doanh nghiệp, về thời điểm phát hành thuận lợi, hoặc tư vấn cho doanh nghiệp tìm kiếm nguồn vốn thay thế khi không thuận lợi. Công ty chứng khoán đưa ra những lời khuyên về đầu tư hợp lý cho khách hàng xuất phát từ sự phân tích và nhận định về sự biến động của chứng khoán.

Tự doanh chứng khoán

Tự doanh chứng khoán là việc công ty chứng khoán trực tiếp tham gia giao dịch chứng khoán cho bản thân của công ty trên thị trường chứng khoán.

Ngay từ đầu, công ty chứng khoán Bảo Việt đã ký kết hợp đồng hợp tác với một số công ty tư vấn trong và ngoài nước; triển khai một số hoạt động kinh doanh như thu mua công trái, tham gia tư vấn cổ phần hóa cho một vài doanh nghiệp nhà nước; thu thập thông tin của các công ty phát hành cổ phiếu, ký hợp đồng làm thủ tục niêm yết và bảo lãnh phát hành, mở tài khoản đầu tư chứng khoán cho một số doanh nghiệp bảo hiểm Việt Nam.

Bảo Việt từ lâu đã là một trong những thành viên tham gia khá tích cực vào đầu tư trái phiếu Chính phủ thông qua các phiên đấu thầu. Trong phiên đấu thầu trái phiếu Chính phủ ngày 2/5/2002, Bảo Việt đã trúng thầu 30 tỷ đồng. Đầu tư vào trái phiếu Chính phủ là

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 24/03/2024