Bàn về hoạt động đầu tư trong doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ - 2

3.1.Nguồn vốn điều lệ

Doanh nghiệp bảo hiểm thường phải ký một phần vốn điều lệ của mình theo quy định của pháp luật. Ơ Việt Nam hiện nay quy định bằng 5% vốn pháp định, phần còn lại DNBH có thể đem đi đầu tư sinh lời.

Trong DNBH nhân thọ, nguồn vốn này chưa phải là chiếm tỷ trọng lớn nhưng có vai trò khá quan trọng. Nó là nguồn vốn tự có của doanh nghiệp nên không chịu sự kiểm soát và quy định chặt chẽ của pháp luật, do đó DNBH có thể đem đầu tư vào những khoản mục có tỷ suất lợi nhuận cao nhằm phục vụ những chiến lược và mục tiêu của mình.

3.2.Quỹ dự trữ bắt buộc

Trong quá trình kinh doanh rủi ro, bản thân DNBH cũng có thể gặp phải những rủi ro gây ảnh hưởng đến khả năng thanh toán của doanh nghiệp, từ đó có thể ảnh hưởng đến khách hàng.Vì vậy Nhà nước phải yêu cầu DNBH phải trích lập các quỹ dự trữ bắt buộc để không những đảm bảo khả năng thanh toán của doanh nghiệp mà còn bảo vệ quyền lợi cho người tham gia bảo hiểm. Luật kinh doanh bảo hiểm Việt Nam quy định các DNBH phải trích 5% lợi nhuận sau thuế hàng năm để lập quỹ dự trữ bắt buộc, mức tối đa của quỹ này là 10% vốn điều lệ của doanh nghiệp bảo hiểm.

3.3.Quỹ dự trữ tự nguyện

Trong quá trình hoạt động kinh doanh, các DNBH luôn phải duy trì khả năng thanh toán của mình. Ngoài quỹ dự trữ bắt buộc, DNBH có thể thành lập quỹ dự trữ tự nguyện. Quỹ này được lấy từ lợi nhuận sau thuế chưa phân phối của doanh nghiệp. DNBH thành lập thêm quỹ này nhằm tăng khả năng thanh toán của mình, thực hiện tốt các cam kết với khách hàng.

Các quỹ dự trữ bắt buộc và tự nguyện của DNBH thường chiếm tỷ trọng không lớn trong nguồn vốn đầu tư của doanh nghiệp nhưng cũng có vai trò quan trọng, góp phần tăng doanh thu và đảm bảo khả năng thanh toán của DNBH.

3.4.Các khoản lãi của những năm trước chưa sử dụng và lợi tức để lại của doanh nghiệp.

Vào cuối mỗi năm tài chính, lợi nhuận sau thuế của DNBH được sử dụng để chia cổ tức cho cổ đông đối với công ty cổ phần, trích lập các quỹ như quỹ đầu tư phát triển, quỹ khen thưởng phúc lợi,... phần còn lại sẽ được bổ sung vào nguồn vốn đầu tư của doanh nghiệp.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 60 trang tài liệu này.

Trong kinh doanh bảo hiểm nhân thọ, DNBH còn có các quỹ đầu tư hình thành từ lợi tức để lại, đảm bảo cho những cam kết có chia lãi.

3.5.Nguồn vốn nhàn rỗi từ dự phòng nghiệp vụ bảo hiểm

Bàn về hoạt động đầu tư trong doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ - 2

a, Quỹ dự phòng nghiệp vụ trong DNBH

Theo quy định hiện hành thì dự phòng nghiệp vụ là quỹ bắt buộc doanh nghiệp bảo hiểm phải lập để thực hiện cam kết với khách hàng theo hợp đồng bảo hiểm trong mọi tình huống. Ngoài ra,các quỹ dự phòng nghiệp vụ còn đóng vai trò " van điều chỉnh " thu , chi và lợi nhuận của doanh nghiệp, đảm bảo doanh nghiệp luôn trong tình trạng phát triển và ổn định.

Quỹ dự phòng nghiệp vụ nếu không được kiểm soát chặt chẽ, vận hành tuỳ tiện sẽ phản tác dụng và gây hại cho doanh nghiệp.

Dự phòng nghiệp vụ có nguồn gốc từ phí thuộc sở hữu của doanh nghiệp, có chiều hướng ngày càng tăng về quy mô do tăng trưởng về nghiệp vụ và mức giữ lại. Sự tăng trưởng của quỹ dự phòng nghiệp và tính ổn định tương đối của nó trở thành một tiềm năng tài chính của doanh nghiệp ,được doanh nghiệp sử dụng vào đầu tư trong chiến lược kinh doanh tổng hợp kinh doanh của mình .

Quỹ dự phòng nghiệp vụ của DNBH bao gồm :

Dự phòng toán học;

Dự phòng chi trả ( bồi thường);

Dự phòng đảm bảo cân đối;

Dự phòng chia lãi;

b, Nguồn vốn nhàn rỗi từ dự phòng nghiệp vụ bảo hiểm

Nguồn vốn nhàn rỗi từ dự phòng nghiệp vụ bảo hiểm của DNBH nhân thọ là tổng dự phòng nghiệp vụ trừ các khoản tiền bồi thường bảo hiểm thường xuyên trong kỳ.

Luật kinh doanh bảo hiểm quy định khoản tiền bồi thường xuyên trong kỳ đối với DNBH nhân thọ là lớn hơn hoặc bằng 5% tổng dự phòng nghiệp vụ.

Cuối mỗi năm tài chính, DNBH trích lập các quỹ dự phòng nghiệp vụ từ quỹ tài chính bảo hiểm cho từng nghiệp vụ bảo hiểm và cho phần trách nhiệm còn lại của hợp đồng bảo hiểm. Trong năm tài chính tiếp theo, các quỹ dự phòng nghiệp vụ thường không phải sử dụng để chi trả, bồi thường hết ngay. DNBH có thể lấy từ tiền phí thu được trong năm để chi trả bồi thường cho phần trách nhiệm phát sinh từ những hợp đồng ký từ những

năm trước. Do vậy DNBH sẽ có một phần quỹ dự phòng nghiệp vụ là "nhàn rỗi " có thể đem đi đầu tư để sinh lời.

Trong các nguồn đầu tư trên thì nguồn vốn nhàn rỗi từ dự phòng nghiệp vụ của DNBH luôn chiếm tỷ trọng lớn trong tổng số vốn đầu tư. Đối với DNBH nhân thọ, nguồn vốn này chiếm đến trên dưới 90%. Việc đầu tư nguồn vốn này chịu sự kiểm soát chặt chẽ của pháp luật. ở Việt Nam luật pháp quy định như sau:

Mua trái phiếu chính phủ, trái phiếu doanh nghiệp có bảo lãnh, gửi tiền tại các tổ chức tín dụng không hạn chế .

Mua cổ phiếu ,trái phiếu doanh nghiệp không có bảo lãnh, góp vốn vào các doanh nghiệp khác tối đa là 50%vốn nhàn rỗi từ dự phòng nghiệp vụ bảo hiểm.

Đối với việc kinh doanh bất động sản, cho vay, uỷ thác đầu tư qua các tổ chức tài chính tín dụng tối đa là 40% vốn nhàn rỗi từ dự phòng nghiệp vụ bảo hiểm.


4.Các nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động đầu tư của doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ

:


Có rất nhiều nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động đầu tư của doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ, trong đó bao gồm cả những nhân tố bên trong và nhân tố bên ngoài.

4.1. Những nhân tố bên trong:

4.1.1. Các nghĩa vụ tài chính của doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ.

Có thể nói nghĩa vụ tài chính của DNBH là nhân tố then chốt quyết định sự lựa chọn các hình thức đầu tư của công ty bảo hiểm, đặc biệt là nghĩa vụ đối với khách hàng( người được bảo hiểm).Nghĩa vụ này được quy định tại các điều khoản của hợp đồng bảo hiểm. Hình thức đầu tư của DNBH sẽ phụ thuộc vào bản chất các nghĩa vụ của DNBH đối với khách hàng.

Nguồn vốn đem đi đầu tư của DNBH phần lớn lấy từ các quỹ dự phòng nghiệp vụ; Do đó để đảm bảo quyền lợi của khách hàng cũng như đảm bảo khả năng thanh toán của công ty thì DNBH khi đầu tư không chỉ tính đến lợi nhuận mà cón phải đảm bảo khả năng đáp ứng cao trách nhiệm đối với người được bảo hiểm. Nếu như không có sự quản lý hoạt động đầu tư một cách chặt chẽ, DNBH sẽ có xu hướng tìm kiếm các hình thức đầu tư sao cho thu được lợi nhuận cao nhất trên cơ sở tài sản tài chính hiện có.

Cũng như DNBH phi nhân thọ, DNBH nhân thọ có hai nghĩa vụ tài chính chủ yếu là :


Trách nhiệm đối với người được bảo hiểm

Trách nhiệm đối với cổ đông.

Bản chất của nghĩa vụ tài chính đối với người được bảo hiểm ở DNBH nhân thọ có ảnh hưởng lớn đến chính sách đầu tư của doanh nghiệp, đặc biệt là đến việc lựa chọn các tài sản được coi là đảm bảo cho nghĩa vụ đó. Nhìn chung, nghĩa vụ tài chính với người tham gia bảo hiểm của DNBH nhân thọ có thời hạn dài hơn so với DNBH phi nhân thọ, nhất là những nghiệp vụ bảo hiểm nhân thọ có liên quan đến việc cung cấp sản phẩm tiết kiệm và hưu trí dài hạn.

Điều này có nghĩa là giới hạn thời gian cho việc đầu tư các quỹ của người tham gia bảo hiểm nhân thọ dài hạn hơn nhiều so với trong bảo hiểm phi nhân thọ.Thêm nữa, các luồng tiền thu vào (inflow) từ phí bảo hiểm nhân thọ tương đối ổn định do phí đã được tính trước và được thu định kỳ hoặc một lần. Do đó DNBH nhân thọ không phải lo lắng quá nhiều về tính thanh khoản của các tài sản trong danh mục đầu tư của mình.

4.1.2.Quy mô của doanh nghiệp bảo hiểm

Quy mô của doanh nghiệp bảo hiểm cũng ảnh hưởng đến sự lựa chọn các hình thức đầu tư

:

Các DNBH có vốn đầu tư lớn sẽ có phạm vi lựa chọn đầu tư rộng hơn, có khả năng đầu tư vào nhiều danh mục khác nhau, đặc biệt là khi có quy định tỷ lệ đầu tư tối thiểu với một số lĩnh vực như bất động sản, trái phiếu chính phủ ...Ngược lại với những DNBH có vốn đầu tư với quy mô nhỏ hơn.

Mức độ thanh khoản của các tài sản tài chính sẽ phụ thuộc vào quy mô đầu tư vào tài sản đó của DNBH so với quy mô của toàn thị trường.Ví dụ, một DNBH nhỏ thì do tài sản đầu tư có gía trị nhỏ nên khi cần họ có thể bán ngay ra thị trường mà không lo làm rối loạn thị trường, đảm bảo tính thanh khoản để có tiền mặt chi tiêu.Trong khi đó, với một DNBH lớn, nắm giữ một giá trị lớn cùng loại tài sản đầu tư đó , khi cần nếu bán ra thị trường có thể bị ảnh hưởng đáng kể do khi bán hàng với số lượng lớn thường bị giảm giá. Trong trường hợp này, tài sản đầu tư đó có thể coi là không đủ tính thanh khoản cần thiết.

4.1.3. Chính sách phân phối lợi nhuận

Nhân tố này ảnh hưởng tới hoạt động đầu tư của doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ, khi doanh nghiệp ký kết những hợp đồng bảo hiểm có cam kết chia lãi như sản phẩm bảo hiểm nhân thọ trọn đời, hỗn hợp và niên kim..

-Nếu thị trường bảo hiểm địa phương có tập quán phân phối lợi nhuận cho người tham gia bảo hiểm dươí hình thức chia lãi bằng tiền mặt hàng năm thì DNBH sẽ chú trọng hơn vào mức thu nhập ngắn hạn từ việc đầu tư.

-Ngược lại, nếu việc phân phối lợi nhuận cho người tham gia bảo hiểm nhân thọ được thực hiện chủ yếu dưới hình thức bổ sung vào số tiền bảo hiểm hoặc trả thưởng vào thời điểm kết thúc hợp đồng bảo hiểm thì DNBH ít quan tâm đến lợi nhuận đầu tư ngắn hạn và tập trung vào đầu tư dài hạn.

4.1.4.Các quan điểm đầu tư của nhà quản lý .

Hoạt động đầu tư chịu tác động bởi nhiều nhân tố, nhưng quyết định đầu tư cuối cùng: đầu tư vào đâu, đầu tư dưới hình thức nào và giá trị bao nhiêu ... là do người chịu trách nhiệm quản lý đầu tư quyết định trong khuôn khổ pháp luật cho phép.

Nếu người quản lý đầu tư là những người thận trọng thì họ thiên về lựa chọn những danh mục đầu tư có mức độ rủi ro thấp. Ngược lại nếu họ là những người ưa mạo hiểm, họ sẽ có xu hướng lựa chọn những danh mục đầu tư có mức độ rủi ro cao hơn nhưng tỷ suất lợi nhuận kỳ vọng sẽ lớn hơn rất nhiều.

Thực tế cho thấy rằng quan điểm quản lý đầu tư ở các thị trường bảo hiểm khác nhau là khác nhau. Điều này có ảnh hưởng tới hội đồng quản trị của các công ty bảo hiểm với tư cách là những người đặt ra các giới hạn chung cho chính sách đầu tư của công ty. Do chịu cùng một sức ép , các chính sách đầu tư nhìn chung có xu hướng tương tự nhau giữa các DNBH hoạt động trên cùng một thị trường.

Tuy nhiên thực tế cũng cho thấy các triết lý hay quan điểm đầu tư không tách biệt với bối cảnh quy mô và tốc độ phát triển của thị trường vốn. Các thị trường vốn có quy mô lớn thường có sự tham gia tích cực của các công ty bảo hiểm. Các khu vực tài chính tự do và năng động hơn thường sẽ tạo ra các tập quán quản lý đầu tư thiếu thận trọng hơn.

4.2.Những nhân tố bên ngoài :

Cũng như bất kỳ một hoạt động kinh tế nào khác , hoạt động đầu tư của DNBH luôn chịu tác động của các nhân tố môi trường bên ngoài như môi trường pháp lý, môi trường kinh tế

-xã hội-chính trị...

4.2.1. Chế độ thúê của Nhà nước .

Thuế là một nhân tố bên ngoài quan trọng có ảnh hưởng đáng kể đến hoạt động đầu tư của DNBH, cụ thể như sau:

Nếu thuế suất áp dụng đối với thu nhập từ đầu tư khác với thúê suất áp dụng đối với thu nhập từ lãi vốn thì điêù đó sẽ làm ảnh hưởng tới việc lựa chọn hình thức đầu tư.

Nếu thu nhập từ lãi vốn đầu tư không bị đánh thúê thì điều này có thể làm thay đổi tính hấp dẫn của các tài sản tài chính khác nhau.

DNBH sẽ tăng giá trị đầu tư vào những lĩnh vực được Nhà nước khuyến khích thông qua việc giảm thuế .

Nhà nước khuyến khích đầu tư cho nền kinh tế bằng chính sách ưu đãi không không đánh thuế đối với lợi nhuận sau thuế của doanh nghiệp nếu lợi nhuận đó được đem tái đầu tư. Khi đó các DNBH sẽ có xu hướng để lại nhiều lợi nhuận sau thuế bổ sung vào vốn điều lệ, tăng nguồn vốn đầu tư cho doanh nghiệp.

4.2.2.Các điều kiện của thị trường vốn.

Quy mô của các thị trường vốn và thị trường tài chính trong nước có tác động quan trọng tới sự lựa chọn các hình thức đầu tư. Các thị trường vốn được tổ chức tốt có thể cung cấp một phạm vi rộng rãi các tài sản tài chính sẵn có và điều này được thể hiện trong danh mục đầu tư của các công ty bảo hiểm. Nếu thị trường vốn phát triển không đầy đủ , sự lựa chọn hình thức đầu tư sẽ bị hạn chế( Điều này thể hiện rất rõ ở thị trường Việt Nam trong những năm qua: Từ năm 2000, chúng ta đã có thị trường chứng khoán nhưng quy mô vẫn còn nhỏ và hoạt động chưa hiệu quả.

4.2.3. Một số công cụ quản lý khác của Nhà nước.

DNBH không thể tự do đầu tư nguồn vốn nhàn rỗi của mình mà luôn chịu sự quản lý của Nhà nước. Nhà nước phải có những hạn chế pháp luật đối với hoạt động đầu tư của DNBH, định hướng đầu tư , đưa ra những danh mục đầu tư nhất định, thậm chí giới hạn mức đầu tư tối đa , tối thiểu.

Thực tế, nguồn vốn của DNBH là rất lớn và có vai trò quan trọng trong nền kinh tế nên Nhà nước cần phải quản lý hoạt động đầu tư của DNBH nhằm mục đích:

+ Bảo vệ người tham gia bảo hiểm;

+Định hướng sự lưu chuyển của các quỹ đầu tư ;

+Giảm nguy cơ tập trung quyền lực trong lĩnh vực tài chính;


5. HìNH THứC và tổ chức hoạt động đầu tư trong doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ :


5.1.Hình thức đầu tư trong DNBH nhân thọ:

5.1.1.Cho vay có thế chấp

Đối với DNBH nhân thọ, hoạt động đầu tư thông qua cho vay có vai trò rất quan trọng thể hiện ở những đặc điểm sau:

Tuân thủ các tiêu chuẩn tài chính

Tạo thu nhập ổn định cho DNBH

Cung cấp cho xã hội một kênh huy động vốn

Góp phần khuyến khích việc tiêu thụ các sản phẩm bảo hiểm

Với tính chất là một công cụ đầu tư, khi tiến hành cho vay, các công ty bảo hiểm cũng phải chịu một số hạn chế nhất định như hạn chế đối với số tiền tối đa được phép cho vay hay hạn chế về đồng tiền cho vay.

Hiện nay, các khoản cho vay có thế chấp của các DNBH chủ yếu đảm bảo bằng bất động sản. Ví dụ như vào cuối những năm 90 ở Mỹ, hơn 17% tổng giá trị các khoản đầu tư của các công ty bảo hiểm nhân thọ là đầu tư cho vay có tài sản thế chấp bằng bất động sản, trong khi những bất động sản do các công ty bảo hiểm này trực tiếp sở hữu chỉ chiếm 3%.

Ngoài ra, các khoản vay theo đơn bảo hiểm nhân thọ ngày càng có xu hướng gia tăng. Đây cũng là một hình thức thu hút thêm khách hàng cho DNBH. ở Việt Nam hiện nay, việc cho vay theo đơn bảo hiểm đang rất thịnh hành và được các DNBH sử dụng như một hình thức cạnh tranh.

5.1.2.Đầu tư chứng khoán

Đây là một công cụ đầu tư được các DNBH sử dụng rộng rãi nhất. Tại Mỹ vào những năm 90, giá trị đầu tư vào chứng khoán chiếm khoảng 60% tổng giá trị đầu tư của các công ty bảo hiểm nhân thọ.Ơ Pháp, có tới 63,9% giá trị đầu tư của các công ty bảo hiểm trong năm 1994 được giành để mua trái phiếu. Ngoài ra, 17% giá trị đầu tư của các công ty bảo hiểm nhân thọ Mỹ là các chứng khoán do Kho bạc Hoa Kỳ và các cơ quan chính phủ liên bang phát hành. Điều này có nghĩa là thu nhập từ các hoạt động đầu tư chứng khoán đem lại cho các công ty bảo hiểm là rất lớn.

Ngoài ra, đầu tư vào chứng khoán có tính thanh khoản cao vì DNBH có thể nhanh chóng bán các loại chứng khoán ra thị trường nếu nhu cầu chi trả tiền mặt là cần thiết. Chứng khoán mà các DNBH đầu tư thường là cổ phiếu và trái phiếu .

Cổ phiếu:

Cổ phiếu là chứng chỉ hoặc bút toán ghi sổ xác nhận quyền sở hữu một hoặc một số cổ phần của công ty đó. Có hai loại cổ phiếu là cổ phiếu thường và cổ phiếu ưu đãi . Cổ phiếu thường là một khoản đầu tư dưới hình thức cổ phần và nó khác hẳn so với trái phiếu trong khi cổ phiếu ưu đãi lại có tính chất của cả cổ phiếu và trái phiếu .

Khi DNBH đầu tư vào cổ phiếu, họ được hưởng các quyền đối với công ty với tư cách là cổ đông,được sở hữu và chia cổ tức với mức độ tương đương với tỷ lệ cổ phần mà họ nắm giữ. Quyền lợi mà DNBH được hưởng lúc này tuỳ theo họ nắm giữ cổ phiếu thường hay cổ phiếu ưu đãi. Ngoài phần lãi thu được từ cổ tức còn có thể thu được lãi vốn. Đó là thu nhập mà DNBH có được do có sự chênh lệch giữa giá thị trường hiện tại và giá mua vào của cổ phiếu.

Trái phiếu:

Đây là một loại chứng khoán được phát hành dưới hình thức chứng chỉ hoặc bút toán ghi sổ, xác nhận nghĩa vụ trả nợ của tổ chức phát hành trái phiếu đối với người sở hữu trái phiếu. Công cụ nợ này có thể do Chính phủ hoặc các doanh nghiệp phát hành. Trái phiếu công ty có độ rủi ro cao hơn trái phiếu chính phủ nhưng lại có tỷ suất lợi nhuận cao hơn. Đầu tư vào trái phiếu chủ yếu chịu sự tác động của rủi ro lãi suất. Do trái phiếu có những lợi thế nhất định như có thời gian đáo hạn dài nên tạo điều kiện cho các DNBH nhân thọ loại trừ rủi ro lãi suất, đặc biệt là khi cạnh tranh trên các thị trường bảo hiểm đã khiến cho những đảm bảo về lãi suất đối với những hợp đồng bảo hiểm nhân thọ thông thường và niên kim có xu hướng tăng.

Tóm lại, đầu tư vào chứng khoán có tỷ suất lợi nhuận cao hơn so với các hình thức đầu tư khác. Các DNBH thường có xu hướng đầu tư giá trị lớn vào danh mục này. Cùng với sự phát triển của thị trường chứng khoán trong những năm qua,việc đầu tư vào thị trường chứng khoán của các DNBH ngày một gia tăng, nhất là các DNBH phi nhân thọ. Hiện nay các DNBH nhân thọ chủ yếu chuyển sang đầu tư vào chứng khoán và các khoản vay có mức độ đảm bảo ít hơn nhưng có mức tỷ suất lợi nhuận kỳ vọng cao hơn.

5.1.3.Đầu tư bất động sản

Xem tất cả 60 trang.

Ngày đăng: 24/03/2024
Trang chủ Tài liệu miễn phí