Giải Pháp Nâng Cao Hiệu Quả Adpl Của Tand Trong Giải Quyết Án Hn&gđ Ở Tỉnh Thái Nguyên

tính then chốt là cải cách tổ chức và hoạt động của hệ thống tòa án. Bởi lẽ, chất lượng phán quyết, các bản án và quyết định của tòa án là kết quả cuối cùng của cả chuỗi hoạt động tố tụng của các cơ quan tư pháp (điều tra, truy tố, xét xử). Một bản án được tòa án tuyên công bằng, khách quan, đúng pháp luật luôn tạo ra sức mạnh, tính chân lý của cả hệ thống cơ quan tư pháp mới được người dân tin tưởng “tâm phục, khẩu phục”. Thông qua hoạt động của tòa án, các cơ quan điều tra, truy tố, thi hành án cũng phải không ngừng nâng cao năng lực hoạt động của mình để đảm bảo tính đồng bộ, trách nhiệm. Theo tinh thần thượng tôn pháp luật, pháp quyền và pháp luật thực định nếu tòa án tuyên vô tội, tất yếu các cơ quan điều tra, viện kiểm sát hoặc tòa án cấp dưới phải thực hiện việc bồi thường nếu để xảy ra oan sai trong quá trình tố tụng.

Nghị quyết số 49 đã chỉ rò “Cải cách tư pháp lấy trọng tâm là cải cách hệ thống tòa án”, “Tổ chức hệ thống tòa án theo thẩm quyền xét xử, không phụ thuộc vào đơn vị hành chính cấp huyện; tòa án sơ thẩm khu vực được tổ chức ở một hoặc một số đơn vị hành chính cấp huyện; tòa án phúc thẩm có nhiệm vụ chủ yếu xét xử phúc thẩm và xét xử sơ thẩm một số vụ án. Tòa Thượng thẩm được tổ chức theo khu vực có nhiệm vụ xét xử phúc thẩm. TAND tối cao có nhiệm vụ tổng kết kinh nghiệm xét xử, hướng dẫn áp dụng thống nhất pháp luật, phát triển án lệ và xét xử giám đốc thẩm, tái thẩm”.

Yêu cầu đầu tiên, cơ bản của cải cách tư pháp là phải đảm bảo tính độc lập của tòa án. Hiến pháp, Luật Tổ chức TAND đã quy định rò ràng “Khi xét xử, Thẩm phán độc lập và chỉ tuân theo pháp luật”. Vì vậy, cần xây dựng tính độc lập của tòa án để giảm thiểu tối đa sự can thiệp từ bên ngoài vào hoạt động của tòa án trong giải quyết các vụ án HN&GĐ.

Yêu cầu thứ hai của cải cách tòa án là xây dựng mô hình tòa án, một mặt tạo thuận lợi cho việc thực hiện quyền lực nhà nước nhưng cũng cần quan tâm đến lợi ích của công dân khi có có việc liên quan đến tố tụng tại tòa.

Quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về xây dựng cơ quan tư pháp phải “gần dân, hiểu dân, giúp dân, học dân” vẫn là bài học vô cùng quý giá trong chiến lược cải cách tư pháp của chúng ta hiện nay.

Yêu cầu thứ ba của cải cách tòa án là phải đặt ra mục tiêu góp phần làm cho hoạt động xét xử đảm bảo “công bằng, liêm khiết”, cán bộ tòa án phải “vừa hồng, vừa chuyên” như lời dạy của Chủ tịch Hồ chí Minh trong ngày đầu mới thành lập ngành tòa án Việt Nam.

Thứ ba, áp dụng pháp luật của TAND trong giải quyết án HN&GĐ phải đáp ứng xu thế mở cửa, hội nhập quốc tế trong hoạt động tư pháp, đặc biệt trong điều kiện có người Việt Nam kết hôn với người nước ngoài và người nước ngoài sinh sống, làm việc tại Việt Nam

Hội nhập quốc tế là một quá trình phát triển tất yếu của xã hội loài người. Sự ra đời và phát triển của kinh tế thị trường cũng là động lực hàng đầu thúc đẩy quá trình hội nhập. Hội nhập diễn ra dưới nhiều hình thức, cấp độ và trên nhiều lĩnh vực khác nhau, theo tiến trình từ thấp đến cao. Hội nhập đã trở thành một xu thế lớn của thế giới hiện đại, tác động mạnh mẽ đến quan hệ quốc tế và đời sống của từng quốc gia. Ngày nay, hội nhập quốc tế là lựa chọn chính sách của hầu hết các quốc gia phát triển.

Việt Nam cũng như hầu hết các quốc gia khác trên thế giới đang trong tiến trình mở cửa, hội nhập quốc tế trên mọi lĩnh vực của cuộc sống trong đó có hoạt động tư pháp. Trong thời gian qua có nhiều công dân Việt Nam ra nước ngoài để sinh sống, học tập, làm việc cũng như có nhiều người nước ngoài tới Việt Nam để sinh hoạt, học tập, công tác. Bởi thế, có rất nhiều quan hệ xã hội mới phát sinh, trong đó có quan hệ HN&GĐ. Pháp luật Việt Nam cũng đã có những quy định khá đầy đủ để điều chỉnh những quan hệ xã hội này. Tuy nhiên, để tạo điều kiện cho các chủ thể tham gia quan hệ HN&GĐ có yếu tố nước ngoài, đòi hỏi các cơ quan nhà nước, các nhà chức trách có

thẩm quyền trong đó có TAND phải áp dụng đúng những quy định của pháp luật trong quá trình giải quyết các vụ án nói chung, án HN&GĐ nói riêng đối với các trường hợp có yếu tố nước ngoài.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 113 trang tài liệu này.

Thứ tư, ADPL trong giải quyết án HN&GĐ phải tạo điều kiện để các quan hệ HN&GĐ phát triển lành mạnh theo đúng chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước ta trong giai đoạn hiện nay

Mục đích, yêu cầu, mong muốn của Nhà nước, các tổ chức khác và nhân dân đối với ADPL của TAND nói chung và ADPL trong giải quyết các vụ án HN&GĐ nói riêng được xác định bằng mục tiêu chung mà đất nước ta đang phấn đấu là phải làm sao cho nhân dân ngày càng giàu có, đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu vật chất và tinh thần của nhân dân; xây dựng xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, tạo ra các điều kiện, cơ hội như nhau cho mỗi người, mỗi dân tộc… Tuy nhiên trong xã hội Việt Nam hiện nay, đang tồn tại nhiều giai tầng khác nhau và lợi ích của mỗi cá nhân, mỗi cộng đồng, giai tầng cũng có sự khác nhau. Để đảm bảo cho xã hội phát triển ổn định thì đòi hỏi không chỉ nội dung của hệ thống pháp luật mà cả hoạt động ADPL của TAND trong giải quyết án HN&GĐ phải đảm bảo một số nguyên tắc cơ bản của Luật HN&GĐ như: vợ chồng bình đẳng trong quan hệ hôn nhân; hôn nhân giữa các dân tộc, tôn giáo khác nhau, giữa những người theo tôn giáo và không theo tôn giáo được pháp luật tôn trọng và bảo đảm thực hiện; không phân biệt sự đối xử giữa các con: con trai, con gái, con nuôi, con đẻ, con trong giá thú, con ngoài giá thú… Chỉ khi nào chúng ta thực hiện tốt những đường lối, chủ trương này thì mới bảo đảm được sự phát triển bình thường của xã hội cũng như việc thực hiện các quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, không làm tổn hại đến lợi ích của những nhà nước nói chung, của mỗi người dân nói riêng.

Áp dụng pháp luật của Tòa án nhân dân trong giải quyết án hôn nhân và gia đình qua thực tiễn tỉnh Thái Nguyên - 10

Thứ năm, ADPL trong giải quyết án HN&GĐ phải bảo đảm lợi ích của phụ nữ và trẻ em

Từ trước tới nay, gia đình luôn giữ vai trò hàng đầu, là yếu tố quyết định đối với việc bảo vệ, chăm sóc, giáo dục trẻ em. Trẻ em là thành phần quan trọng cấu thành gia đình. Quan hệ huyết thống và quan hệ nuôi dưỡng chính là hai trong ba mối quan hệ cơ bản tạo nên gia đình. Trong gia đình, việc bảo vệ, chăm sóc, giáo dục trẻ em cần được thực hiện một cách khoa học với những kiến thức, kỹ năng phù hợp. Chăm sóc phải gắn liền với bảo vệ, phải xác định gia đình chính là nơi an toàn nhất cho trẻ em.

Phụ nữ Việt Nam truyền thống và hiện tại cáng đáng trách nhiệm nuôi nấng, chăm sóc con cái. Có thể nói, trong thời gian đầu đời thì người mẹ là người giao tiếp với con nhiều nhất. Đây là thời gian hình thành cái gốc của nhân cách, cái cốt vật chất của trẻ, vì vậy, ảnh hưởng của người mẹ đối với con trong sự trưởng thành về nhân cách của trẻ là rất lớn.

Nhận thức được tầm quan trọng và vai trò của người phụ nữ trong gia đình cũng như vấn đề bảo vệ, quan tâm, chăm sóc, giáo dục trẻ em trong xã hội, pháp luật Việt Nam đã có nhiều văn bản thể hiện quan điểm bảo vệ quyền lợi của phụ nữ và trẻ em như: Hiến pháp, Luật HN&GĐ, Luật bảo vệ trẻ em, Luật bình đẳng giới, nhà nước đã tham gia ký kết công ước quốc tế về quyền trẻ em, ban hành các văn bản dưới luật đảm bảo thực hiện quyền của phụ nữ và trẻ em… Đây là những cơ sở pháp lý quan trọng để tòa án trong quá trình giải quyết các vụ án HN&GĐ, đặc biệt là án ly hôn, phải đảm bảo được quyền và lợi ích của phụ nữ và trẻ em.

Bảo đảm lợi ích của phụ nữ và trẻ em trước hết là đảm bảo cho trẻ em được thực hiện các quyền của mình đồng thời phòng ngừa không để trẻ em bị thiệt thòi, ngăn ngừa không để cho các cháu rơi vào hoàn cảnh đặc biệt khó khăn như: bị mồ côi cha mẹ, khuyết tật, bị xâm hại tình dục, trở thành tội phạm vị thành niên, nghiện ma túy, mắc các tệ nạn xã hội, bảo đảm cho phụ

nữ được hưởng những quyền lợi đã được quy định trong Luật HN&GĐ và những văn bản pháp luật khác. Tuy nhiên, mặc dù nhà nước đã cố gắng cụ thể hóa những vấn đề liên quan đến việc bảo đảm lợi ích của phụ nữ và trẻ em vào trong Luật như quy định quyền của phụ nữ và trẻ em, quy định hạn chế quyền yêu cầu ly hôn của người chồng khi người vợ đang có thai hoặc nuôi con nhỏ dưới 12 tháng tuổi… những Luật cũng không thể dự liệu được tất cả những tình huống có thể xảy ra trong cuộc sống. Bởi vậy, trong quá trình giải quyết các vụ án về HN&GĐ, những người ADPL phải biết vận dụng cho linh hoạt và hợp lý, vừa phải đảm bảo được những lợi ích chính đáng, hợp pháp của phụ nữ và trẻ em, vừa phải thấu tình đạt lý, hợp lòng dân, không được gây phương hại đến những quyền và lợi ích hợp pháp của những chủ thể liên quan cũng như của của người dân nói chung. Qua đó, phải giáo dục, giải thích để phụ nữ và trẻ em nắm rò pháp luật, nhất là ở những vùng núi, vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới, hải đảo bởi họ ít có cơ hội được nắm bắt những kiến thức pháp luật cũng như khả năng nhận thức của họ còn hạn chế. Làm tốt được điều đó, phụ nữ và trẻ em sẽ biết cách tự bảo vệ mình, bảo vệ quyền lợi của mình trong mỗi vụ án cũng như trong những quan hệ xã hội mà họ gặp phải. Đồng thời, trong quá trình giải quyết án HN&GĐ, các chủ thể có thẩm quyền cũng phải tiến hành thu thập đầy đủ chứng cứ của vụ án, tiến hành xác minh đúng trình tự, thủ tục, xem xét tất cả mọi vấn đề liên quan đến đương sự để có thể ADPL một cách chính xác, sát thực.

3.2. Giải pháp nâng cao hiệu quả ADPL của TAND trong giải quyết án HN&GĐ ở tỉnh Thái Nguyên

3.2.1. Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với hoạt động TAND tỉnh Thái Nguyên nói chung và việc áp dụng pháp luật trong giải quyết án hôn nhân và gia đình nói riêng

Dưới sự lãnh đạo của Đảng, việc xây dựng và phát triển các cơ quan tư pháp nói chung và TAND nói riêng đã không ngừng lớn mạnh về mọi mặt và

hoàn thành tương đối tốt nhiệm vụ được giao. Kể từ sau Đại hội VI, sự lãnh đạo của Đảng đối với TAND có sự đổi mới, đã ban hành và chỉ đạo thực hiện nhiều chỉ thị, nghị quyết về công tác Tòa án đặc biệt là ADPL trong giải quyết án HN&GĐ, góp phần thúc đẩy về tổ chức vào hoạt động của TAND các cấp. Nhận thức của các cấp ủy và đảng viên về công tác xét xử và ADPL, về vị trí, chức năng, nhiệm vụ của Tòa án ngày càng đầy đủ hơn. Trong thời gian qua, phương thức lãnh đạo của các cấp ủy đảng ở tỉnh Thái Nguyên cũng đã được cải tiến từng bước khắc phục các khuynh hướng sai lệch hoặc buông lỏng sự lãnh đạo đối với TAND các cấp đồng thời chú ý nhiều hơn đến công tác kiểm tra việc thực hiện các chỉ thị, nghị quyết của đảng. Ban cán sự đảng trong các cơ quan TAND ở tỉnh được thành lập, các tổ chức cơ sở đảng đã có sự phối hợp công tác giữa các cơ quan tư pháp và TAND với các cơ quan nhà nước và tổ chức khác. Các cấp ủy đảng và đảng viên trực tiếp hoạt động ADPL trong giải quyết án HN&GĐ có nhiều cố gắng quán triệt đường lối chính sách của đảng vào việc thực hiện tốt nhiệm vụ được giao.

Sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác Tòa án là toàn diện và tuyệt đối. Với công tác kiểm tra của Đảng, vai trò gương mẫu của cán bộ, Đảng viên và sự lãnh đạo trực tiếp của tổ chức cơ sở Đảng trên cả ba phương diện tư tưởng, tổ chức và cán bộ. Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng không có nghĩa là tổ chức Đảng và đảng viên can thiệp sâu vào các hoạt động thụ lý, điều tra, xét xử của Tòa án, quyết định phương hướng giải quyết vụ án cũng như can thiệp vào kết luận của bản án. Sự lãnh đạo của Đảng được thực hiện bằng đường lối xét xử công khai, nghiêm minh, kịp thời, đúng pháp luật; bằng phương hướng đổi mới cơ cấu tổ chức và hoạt động của TAND; bằng kế hoạch xây dựng đội ngũ cán bộ ngành tư pháp ngày càng vững mạnh, vừa có trình độ chuyên môn nghiệp vụ vững vàng vừa có phẩm chất đạo đức chính trị tốt, chí công vô tư… Thực hiện tốt những đường lối này chất lượng hoạt động ADPL của TAND trong giải quyết án HN&GĐ chắc chắn sẽ được cải thiện và không ngừng

nâng cao, tạo được niềm tin và sự hài lòng cho người dân nói chung và cho các đương sự tham gia mỗi vụ án nói riêng.

Tăng cường đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với hoạt động ADPL trong giải quyết án HN&GĐ của TAND ở tỉnh Thái Nguyên là cần thiết, để đảm bảo hiệu quả ADPL trong hoạt động xét xử nói chung và giải quyết án HN&GĐ nói riêng. Sự lãnh đạo này bao trùm trên cả ba phương diện: về chính trị, tổ chức cán bộ, khắc phục tình trạng cấp ủy Đảng buông lỏng lãnh đạo hoặc can thiệp không đúng vào hoạt động xét xử của TAND các cấp. Nội dung lãnh đạo của Đảng đối với TAND ở tỉnh Thái Nguyên trong giải quyết án HN&GĐ tập trung vào các vấn đề cơ bản sau:

- Tăng cường công tác xây dựng Đảng, giáo dục, quản lý, kiểm tra hoạt động của các tổ chức Đảng, đảng viên; chăm lo công tác quy hoạch, đào tạo, tuyển chọn, bố trí, sử dụng đúng cán bộ trong hệ thống TAND.

- Tỉnh ủy Thái Nguyên cần chú ý lãnh đạo việc quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, bố trí, đề bạt, bổ nhiệm cán bộ có năng lực, quan tâm các Thẩm phán làm công tác giải quyết án HN&GĐ, làm trong sạch nội bộ, kiên quyết xử lý nghiêm những cán bộ Tòa án thoái hóa biến chất, vi phạm pháp luật.

- Xây dựng và hoàn thiện cơ chế lãnh đạo của cấp ủy Đảng trong việc chỉ đạo giải quyết những vụ việc quan trọng, phức tạp; cơ chế phối hợp làm việc giữa các tổ chức Đảng với các cơ quan tư pháp và các ban ngành có liên quan theo hướng cấp ủy định kỳ nghe báo cáo và cho ý kiến định hướng về công tác tư pháp. Xác định rò trách nhiệm tập thể và cá nhân cấp ủy viên trong lãnh đạo, chỉ đạo công tác của các TAND địa phương.

- Tăng cường công tác xây dựng Đảng cho các chi bộ Đảng TAND các cấp ở Thái Nguyên; kiện toàn Ban cán sự Đảng về tổ chức và nội dung hoạt động, thực sự phát huy vai trò lãnh đạo của Đảng trong hoạt động ADPL giải quyết án HN&GĐ của Tòa án trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên.

- Các cấp ủy đảng ở tỉnh Thái Nguyên quan tâm lãnh đạo, phối hợp giữa Tòa án với các cơ quan hữu quan khác trong hoạt động tố tụng như điều tra, xác minh, định giá… khắc phục tình trạng cục bộ, khép kín hoặc né tránh, thiếu trách nhiệm; lãnh đạo sự phối hợp giữa TAND các cấp với nhà nước, đoàn thể nhân dân và các phương tiện thông tin đại chúng, nhằm đáp ứng hoạt động giải quyết án HN&GĐ.

Bên cạnh sự lãnh đạo của Đảng đối với TAND các cấp nói trên, cần tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với công tác TAND các cấp ở tỉnh Thái Nguyên. Tuy nhiên, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với hoạt động ADPL của TAND không có nghĩa là tổ chức Đảng và đảng viên can thiệp vào hoạt động xét xử của tòa án, phán quyết của tòa án về quyền và nghĩa vụ của đương sự.

Đảng lãnh đạo TAND các cấp theo nguyên tắc tập trung dân chủ, tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách; lãnh đạo thông qua đảng ủy, ban cán sự, tổ chức cơ sở đảng và đảng viên trong TAND, lãnh đạo bằng thuyết phục giáo dục, bàn bạc dân chủ; lãnh đạo bằng quyết định tập thể. Ban cán sự và Ban chấp hành Đảng ủy bằng cách theo dòi, cho ý kiến chỉ đạo, kiểm tra việc thực hiện thông qua kết quả ADPL giải quyết án HN&GĐ. Đối với những vụ án phức tạp, xin ý kiến chỉ đạo của cấp ủy đảng ở địa phương về phương hướng, quan điểm và đường lối giải quyết vụ án. Làm tốt được điều này, hoạt động của TAND sẽ ngày càng đạt hiệu quả cao hơn, được nhân dân tin tưởng hơn và bản án, quyết định được TAND ban hành có chất lượng ngày càng tốt hơn, đáp ứng kịp thời yêu cầu nhiệm vụ tăng cường pháp chế, bảo vệ nền dân chủ và bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong tình hình mới.

3.2.2. Tiếp tục hoàn thiện hệ thống văn bản QPPL nhằm đảm bảo áp dụng pháp luật trong giải quyết án HN&GĐ trong cả nước cũng như ở Thái Nguyên

Việt Nam là một đất nước có hệ thống pháp luật thành văn. Tuy nhiên,

Xem toàn bộ nội dung bài viết ᛨ

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 26/06/2022