quan điểm cải cách tư pháp là: “Xây dựng nền tư pháp trong sạch, vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh, bảo vệ công lý, từng bước hiện đại, phục vụ nhân dân, phụng sự Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, hoạt động tư pháp mà trọng tâm là hoạt động xét xử được tiến hành hiệu quả và hiệu lực cao. Cải cách tư pháp phải đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng, bảo đảm sự ổn định chính trị, thể hiện đúng bản chất Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, cải cách tư pháp phải xuất phát từ yêu cầu phát triển kinh tê, xã hội, xây dựng xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, phát huy sức mạnh tổng hợp toàn xã hội, kế thừa truyền thống pháp lý dân tộc, những thành tựu đã đạt được của nền tư pháp xã hội chủ nghĩa Việt Nam, cải cách tư pháp phải tiến hành khẩn trương, đồng bộ, có trọng tâm, trọng điểm với những bước đi vững chắc”. Cần xây dựng, hoàn thiện chế định biện pháp tạm giam theo hướng: Huy động sức mạnh của toàn xã hội vào công cuộc phòng ngừa và đấu tranh chống tội phạm bằng việc quy định trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cá nhân vào các hạot động giám sát, theo dòi bị can, bị cáo để nâng cao hiệu quả áp dụng biện pháp tạm giam được thực hiện trong cộng đồng; quan tâm và coi trọng người bào chữa trong TTHS…
Ba là hoàn thiện pháp luật TTHS về biện pháp tạm giam trong tiến trình mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế, toàn cầu hóa là xu thế khách quan, có tác động đến nhiều quốc gia, trong đó có Việt Nam. Nước ta cần thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, mở rộng đa phương hóa, đa dạng hóa các mối quan hệ quốc tế. Trong xu thế chung, điều ước quốc tế đang dần trở thành một bộ phận của hệ thống pháp luật mỗi quốc gia. Việc nghiên cứu, sửa đổi, bổ sung, ban hành văn bản quy phạm pháp luật mới trên cơ sở đối chiếu với các chuẩn mực quốc tế để hài hòa các quy định pháp luật trong nước và quốc tế, đảm bảo cho việc thực hiện cam kết quốc tế là hết sức quan trọng. Trước yêu cầu mở rộng hợp tác quốc tế, đòi hỏi xây dựng và hoàn thiện chế định tạm giam theo hướng rút ngắn thời hạn tạm giam trong các giai đoạn tố tụng, xác định vị trí của nhân viên lãnh sự - người đại diện của bị can, bị cáo như là người bào chữa để họ có thể bảo vệ công dân có yếu tố nước ngoài bị áp dụng biện pháp ngăn chặn nói chung, tạm giam nói riêng; bắt, tạm giữ để dẫn độ được quy định trong hiệp định tương trợ tư pháp và pháp luật cần phù hợp với các biện pháp ngăn chặn trong BLTTHS, nâng cấp cơ sở vật chất, đảm bảo
điều kiện sinh hoạt cho người nước ngoài phạm tội tại nơi giam, giữ; phối hợp với các lực lượng phòng, chống tội phạm của quốc tế và khu vực để nhanh chóng có thông tin về tội phạm để kịp thời áp dụng biện pháp ngăn chặn nói chung, tạm giam nói riêng…
3.2. Những giải pháp hoàn thiện quy định pháp luật về biện pháp tạm giam
Trên cơ sở những hạn chế trong quy định của pháp luật và thực trạng áp dụng biện pháp tạm giam trên địa bàn thành phố Tây Ninh đã trình bày trong chương 2 của luận văn cho thấy cần phải nghiên cứu, sửa đổi, bổ sung để tiếp tục hoàn thiện các quy định của BLTTHS về biện pháp tạm giam nhằm đáp ứng tốt hơn nữa yêu cầu của công cuộc cải cách tư pháp và thượng tôn pháp luật, đồng thời với việc bảo hộ, bảo vệ quyền con người, quyền công dân.
Tạm giam là biện pháp ngăn chặn có tính cưỡng chế cao nhất trong TTHS. Do đó, việc áp dụng biện pháp này phải dựa trên những quy định pháp luật hết sức chặt chẽ, cụ thể của BLTTHS về căn cứ, thời hạn áp dụng và thẩm quyền quyết định áp dụng.
3.2.1. Hoàn thiện quy định về căn cứ tạm giam
Trên cơ sở tinh thần các Nghị quyết của Đảng về cải cách tư pháp “xác định rò căn cứ tạm giam; hạn chế việc áp dụng biện pháp tạm giam đối với một số loại tội phạm; thu hẹp đối tượng người có thẩm quyền quyết định việc áp dụng biện pháp tạm giam”. Qua nghiên cứu thực trạng quy định của pháp luật và thực tiễn áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giam cùng những bất cập, vướng mắc trong thời gian qua, tác giả cho rằng cần phải sửa đổi, hoàn thiện một số vấn đề về quy định căn cứ áp dụng biện pháp tạm giam trong BLTTHS. Cụ thể như sau:
Thứ nhất, cần quy định chặt chẽ, cụ thể căn cứ áp dụng biện pháp ngăn chặn nói chung, phân biệt rò ràng giữa mục đích áp dụng với căn cứ áp dụng biện pháp ngăn chặn làm cơ sở để áp dụng biện pháp tạm giam. BLTTHS năm 2015 quy định căn cứ áp dụng biện pháp ngăn chặn tại Khoản 1 Điều 109 nhưng nội dung này không thể hiện rò là căn cứ hay mục đích áp dụng biện pháp ngăn chặn. Bên cạnh đó, các biện pháp ngăn chặn trong TTHS có tính chất, mức độ nghiêm khắc khác nhau nên không thể quy định căn cứ áp dụng chung cho nhiều biện pháp.
Mặt khác, có thể đưa khái niệm biện pháp tạm giam vào nội dung Khoản 1
Có thể bạn quan tâm!
- Đặc Điểm Tự Nhiên, Kinh Tế - Xã Hội Có Ảnh Hưởng Đến Việc Áp Dụng Biện Pháp Tạm Giam Trong Hoạt Động Giải Quyết Vụ Án Hình Sự Trên Địa Bàn
- Những Tồn Tại, Hạn Chế Trong Áp Dụng Biện Pháp Tạm Giam Trên Địa Bàn Thành Phố Tây Ninh, Tỉnh Tây Ninh
- Tình Hình Áp Dụng Biện Pháp Tạm Giam Trong Tổng Số Bị Can Bị Khởi Tố Mới Hàng Năm Trên Địa Bàn Thành Phố Tây Ninh, Tỉnh Tây Ninh Từ Năm 2016
- Áp dụng biện pháp tạm giam từ thực tiễn thành phố Tây Ninh, tỉnh Tây Ninh - 10
- Áp dụng biện pháp tạm giam từ thực tiễn thành phố Tây Ninh, tỉnh Tây Ninh - 11
Xem toàn bộ 97 trang tài liệu này.
Điều 119 BLTTHS năm 2015 như sau:
Điều 119: Tạm giam
1. Tạm giam là biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự do người có thẩm quyền của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án áp dụng đối với bị can, bị cáo trong những trường hợp do Bộ luật tố tụng hình sự quy định nhằm ngăn chặn tội phạm, ngăn ngừa họ tiếp tục phạm tội hoặc có hành vi trốn tránh pháp luật, gây khó khăn, cản trở cho việc điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án…
Thứ hai, không dựa vào quy định và kết quả phân loại tội phạm như một điều kiện độc lập và duy nhất để xây dựng căn cứ áp dụng biện pháp tạm giam. Cần coi khả năng của bị can, bị cáo có thể cản trở, gây khó khăn cho việc điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án hoặc có thể tiếp tục phạm tội là căn cứ chủ yếu để xem xét, quyết định áp dụng biện pháp tạm giam. Việc quy định điều này nhằm đảm bảo bản chất, chức năng của biện pháp ngăn chặn chính là ngăn ngừa tội phạm, ngăn chặn hành vi nguy hiểm cho xã hội và tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình giải quyết VAHS.
Thứ ba, bổ sung thêm một trong những căn cứ tạm giam là khi áp dụng các biện pháp ngăn chặn khác không có hiệu quả, nhằm khuyến khích các cơ quan tiến hành tố tụng áp dụng biện pháp này, còn tạm giam là biện pháp cuối cùng cần phải áp dụng trong TTHS nhằm đảm bảo thuận lợi cho quá trình giải quyết VAHS.
Thứ tư, sửa đổi các quy định về áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp tạm giam trong giai đoạn truy tố, xét xử sơ thẩm, sau khi tuyên án, xét xử phúc thẩm, trả hồ sơ để điều tra lại hoặc xét xử lại theo hướng dẫn chiếu căn cứ, điều kiện áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giam về Điều 119, Điều 419 BLTTHS năm 2015.
Thứ năm, cần nghiên cứu việc việc hạn chế tạm giam đối với một số loại tội phạm. Thực tiễn áp dụng biện pháp tạm giam ở nước ta những năm qua cho thấy Bô luật TTHS hiện hành không quy định những loại tội phạm nào thì có thể hạn chế việc tạm giam nên việc xem xét, quyết định tạm giam chỉ căn cứ vào quy định của Điều 119 và Điều 419 (nếu bị can, bị cáo là người dưới 18 tuổi) chứ không căn cứ vào những loại tội phạm mà bị can, bị cáo thực hiện. Trên thực tế có những trường hợp bị can, bị cáo phạm tội thuộc nhóm tội phạm về kinh tế, chức vụ, có nơi cư trú rò ràng, có đủ điều kiện để được áp dụng biện pháp ngăn chặn khác ít nghiêm khắc hơn biện pháp tạm giam như cấm đi khỏi nơi cư trú, bảo lĩnh, đặt tiền để bảo đảm,
họ không có khả năng bỏ trốn hoặc có điều kiện thực tế có thể trốn hoặc có thể gây khó khăn, cản trở quá trình điều tra, xử lý vụ án hay có thể tiếp tục phạm tội. Nhưng họ vẫn bị tạm giam với lý do tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình điều tra, truy tố, xét xử. Trong khi đó, việc hạn chế tạm giam đối với bị can, bị cáo phạm một số loại tội phạm là rất cần thiết. Vấn đề đặt ra là cần hạn chế tạm giam đối với những loại tội phạm cụ thể nào và trong trường hợp nào. Theo quan điểm của tác giả, trên cơ sở nghiên cứu về tình hình thực tế của nước ta hiện nay, có thể nghiên cứu để hạn chế áp dụng biện pháp tạm giam đối với bị can, bị cáo phạm những loại tội phạm sau: Nhóm tội phạm xâm phạm trật tự quản lý kinh tế, nhóm tội phạm về môi trường, một số tội phạm thuộc nhóm tội phạm xâm phạm an toàn công cộng, trật tự công cộng và trật tự quản lý hành chính, một số tội phạm thuộc nhóm tội phạm về chức vụ và nhóm tội phạm xâm phạm hoạt động tư pháp.
Thứ sáu, cần quy định rò ràng hơn về việc xem xét hồ sơ, tài liệu là chứng cứ chứng minh về căn cứ áp dụng biện pháp tạm giam.
3.2.2. Quy định về thời hạn tạm giam
Nhìn chung, BLTTHS quy định thời hạn tạm giam theo từng giai đoạn TTHS cũng như trong các trường hợp nhất định như phục hồi điều tra, điều tra bổ sung khá thống nhất và hợp lý. Theo quy định tại Điều 173 BLTTHS, thời hạn tạm giam để điều tra không quá hai tháng đối với tội phạm ít nghiêm trọng, không quá ba tháng đối với tội phạm nghiêm trọng, không quá bốn tháng đối với tội phạm rất nghiêm trọng và đặc biệt nghiêm trọng. Trong trường hợp vụ án có nhiều tình tiết phức tạp, xét thấy cần phải có thời gian dài hơn cho việc điều tra và không có căn cứ để thay đổi, hủy bỏ biện pháp tạm giam thì có thể gia hạn tạm giam. Thời hạn gia hạn tùy thuộc vào loại tội phạm mà bị can đã thực hiện đang bị điều tra. So sánh thời hạn tạm giam để điều tra tối đa với thời hạn điều tra tối đa, ta thấy thời hạn tạm giam để điều tra (kể cả gia hạn) đối với tội phạm ít nghiêm trọng là không quá 3 tháng, tội nghiêm trọng là không quá 5 tháng, tội rất nghiêm trọng là không quá 7 tháng, tội đặc biệt nghiêm trọng không quá 16 tháng trong khi thời hạn điều tra tương ứng đối với từng loại tội phạm lần lượt là 4 tháng, 8 tháng, 12 tháng và 20 tháng. Từ đó cho thấy thời hạn tạm giam để điều tra và thời hạn điều tra không đồng nhất với nhau đối với tất cả các loại tội phạm. BLTTHS năm 2015 đã có quy định về trường hợp
đặc biệt nếu không có căn cứ để hủy bỏ biện pháp tạm giam thì Viện trưởng VKSNDTC quyết định việc tạm giam cho đến khi kết thúc việc điều tra. Tuy nhiên, việc xác định thế nào là trường hợp đặc biệt thì lại chưa có quy định, hướng dẫn cụ thể. Đồng thời, quy định này cũng chỉ áp dụng đối với trường hợp bị can phạm tội đặc biệt nghiêm trọng. Còn đối với trường hợp phạm tội rất nghiêm trọng, nghiêm trọng hay ít nghiêm trọng thì vẫn có sự chênh lệch giữa hai thời hạn này. Do đó, cần phải có quy định thống nhất về hai loại thời hạn này.
Ngoài ra, BLTTHS cũng chưa có quy định thủ tục rút gọn đối với người dưới 18 tuổi phạm tội, đồng thời chỉ quy định chung về thời hạn tạm giam đối với người dưới 18 tuổi phạm tội là bằng hai phần ba thời hạn mà người từ đủ 18 tuổi phải chấp hành. Theo đó, những người này cũng sẽ phải chấp hành thời hạn tiến hành các hoạt động điều tra, truy tố, xét xử tương tự như người đã thành niên. Bên cạnh đó, đối với người dưới 18 tuổi phạm tội thì người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi với người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi thì TNHS cùng với căn cứ áp dụng biện pháp tạm giam đối với họ cũng như năng lực, khả năng nhận thức của họ đối với việc thực hiện tội phạm là khác nhau. Do đó, việc quy định một mức chung về thời hạn tạm giam đối với họ là chưa phù hợp. Điều này chưa phù hợp với các Công ước quốc tế về bảo về quyền của người chưa thành niên, thủ tục tư pháp đối với người chưa thành niên mà Việt Nam là thành viên khi mà các văn bản này đều yêu cầu một thủ tục rút gọn, thân thiện đối với nhóm người cần sự quan tâm đặc biệt này. Theo đó, ngoài việc bảo đảm áp dụng biện pháp tạm giam như là biện pháp cuối cùng cần thiết đối với những trường hợp ngoại lệ thì thời hạn tạm giam đối với những người chưa thành niên (dưới 18 tuổi) phạm tội cũng cần được quy định chặt chẽ, cụ thể, phù hợp với từng nhóm lứa tuổi. Điều này góp phần hạn chế tác động tiêu cực tới tâm lý, tinh thần cho nhóm đối tượng dễ tổn thương này và sớm đưa các em hòa nhập cộng đồng. Từ phân tích đó, tác giả cho rằng cần nghiên cứu, sửa đổi BLTTHS theo hướng rút ngắn thời hạn điều tra, truy tố, xét xử; đồng thời phân loại thời hạn tạm giam hợp lý đối với từng nhóm độ tuổi đối với người dưới 18 tuổi phạm tội.
3.2.3. Quy định về thẩm quyền quyết định áp dụng biện pháp tạm giam
BLTTHS năm 2015 quy định về thẩm quyền áp dụng biện pháp tạm giam tại Khoản 5 Điều 119 và Khoản 1 Điều 113. Theo đó, những người có quyền ra lệnh,
quyết định tạm giam bao gồm: Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng CQĐT các cấp. Trường hợp này, lệnh bắt phải được VKS cùng cấp phê chuẩn trước khi thi hành; Viện trưởng, Phó Viện trưởng VKSND và Viện trưởng, Phó Viện trưởng VKS quân sự các cấp; Chánh án, Phó Chánh án TAND và Chánh án, Phó Chánh án Tòa án quân sự các cấp; HĐXX.
Hiện nay có nhiều quan điểm về thẩm quyền áp dụng biện pháp tạm giam. Có ý kiến cho rằng cần phải thu hẹp phạm vi chủ thể có thẩm quyền áp dụng biện pháp tạm giam, chỉ có Viện trưởng, Phó Viện trưởng VKS các cấp, Chánh án, Phó Chánh án Tòa án các cấp và HĐXX có quyền áp dụng biện pháp này. Tuy nhiên, cũng có quan điểm cho rằng việc thu hẹp phạm vi thẩm quyền áp dụng biện pháp tạm giam là không khả thi, mà vấn đề chủ yếu là xây dựng pháp luật hoàn chỉnh, đào tạo và bồi dưỡng đội ngũ cán bộ đủ năng lực, có cơ chế kiểm tra, giám sát hiệu quả của tổ chức, công dân.
Tuy vậy, tác giả cho rằng việc giữ nguyên thẩm quyền áp dụng biện pháp tạm giam theo quy định của pháp luật hiện hành hay thu hẹp phạm vi áp dụng, chỉ giao quyền cho Viện trưởng, Phó Viện trưởng VKS các cấp, Chánh án, Phó Chánh án Tòa án các cấp và HĐXX áp dụng biện pháp tạm giam đều chưa phù hợp. Viện trưởng, Phó Viện trưởng VKS các cấp, Chánh án, Phó Chánh án Tòa án các cấp chỉ là các chức danh quản lý hành chính của các cơ quan VKS, Tòa án chứ không phải là chức danh tư pháp. Trong khi đó, KSV, Thẩm phán mới là người được phân công thụ lý vụ án, tiến hành tố tụng. Viện trưởng VKS, Chánh án Tòa án thường chỉ ban hành các quyết định thông qua sự tham mưu của những người trực tiếp tiến hành tố tụng là KSV, Thẩm phán được phân thụ lý vụ án. Do đó, việc ra quyết định của những người này chỉ mang tính hình thức. Tương tự, việc ban hành các quyết định áp dụng biện pháp ngăn chặn nói chung, tạm giam nói riêng của Thủ trưởng, Phó thủ trưởng CQĐT, hay Phó Viện trưởng VKS, Phó Chánh án Tòa án được ủy quyền cũng dựa trên sự tham mưu của những người trực tiếp tiến hành tố tụng. Chính vì vậy, tác giả cho rằng cần cho phép những người trực tiếp tiến hành tố tụng như Điều tra viên, KSV, Thẩm phán quyền quyết định áp dụng biện pháp ngăn chặn nói chung, tạm giam nói riêng. Bởi lẽ họ là người trực tiếp tiến hành giải quyết vụ án, nắm rò các tài liệu, hồ sơ, chứng cứ cũng như tình hình diễn biến của vụ án, từ đó xác định có cần thiết áp dụng biện pháp tạm giam hay không. Việc giao cho người
trực tiếp tiến hành tố tụng thẩm quyền áp dụng biện pháp tạm giam sẽ đảm bảo giá trị thực tế khi giải quyết vụ án đồng thời tăng tính trách nhiệm của họ trong quá trình TTHS. Điều này cũng phù hợp với tinh thần Nghị quyết số 49/NQ-TW là “tăng quyền và trách nhiêm cho Điều tra viên, KSV và Thẩm phán để họ chủ động trong thực thi nhiệm vụ, nâng cao tính độc lập và chịu trách nhiệm trước pháp luật về các hành vi và quyết định tố tụng của mình”.
Mặt khác, theo quy định của pháp luật hiện hành, lệnh tạm giam của Thủ trưởng, Phó thủ trưởng CQĐT các cấp phải được VKS cùng cấp phê chuẩn trước khi thi hành. Điều đó có nghĩa là thẩm quyền áp dụng biện pháp tạm giam của những người này không phải là thẩm quyền độc lập, lệnh của họ phải được VKS cùng cấp phê chuẩn mới có hiệu lực thi hành. Trong khi đó, đây là những chủ thể chịu trách nhiệm trong việc giải quyết vụ án trong giai đoạn điều tra cũng như áp dụng biện pháp ngăn chặn trong giai đoạn này. Do đó, tác giả cho rằng cần có sự điều chỉnh, bổ sung quy định của pháp luật TTHS hiện hành theo hướng hoặc là bỏ thẩm quyền áp dụng biện pháp tạm giam của những người này, thay thế bằng việc đề nghị VKS áp dụng biện pháp tạm giam khi có căn cứ và cần thiết theo quy định của pháp luật; hoặc quy định việc áp dụng biện pháp tạm giam là thẩm quyền độc lập của CQĐT, VKS sẽ đóng vai trò kiểm sát tính hợp pháp của quyết định đó như trường hợp kiểm sát quyết định tạm giữ.
3.2.4. Quy định về thay đổi, hủy bỏ biện pháp tạm giam
Hoàn thiện các quy định về thay đổi, hủy bỏ biện pháp ngăn chặn nói chung, tạm giam nói riêng trong các giai đoạn tố tụng theo hướng người có thẩm quyền phải thay đổi, hủy bỏ biện pháp ngăn chặn đó khi không còn căn cứ hoặc hết thời gian pháp luật quy định. Cụ thể cần hoàn thiện một số quy định cụ thể như sau:
- Sửa đổi căn cứ hủy bỏ biện pháp tạm giam trong giai đoạn điều tra. Theo Khoản 7 Điều 173 thì “trong thời hạn tạm giam, nếu xét thấy không cần thiết phải tiếp tục tạm giam thì Cơ quan điều tra phải kịp thời đề nghị Viện kiểm sát hủy bỏ việc tạm giam để trả tự do cho người bị tạm giam hoặc xét thấy cần thiết thì áp dụng biện pháp ngăn chặn khác. Khi đã hết thời hạn tạm giam thì người bị tạm giam phải được trả tự do. Trường hợp xét thấy cần thiết thì cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng áp dụng biện pháp ngăn chặn khác”. Việc xét thấy không cần thiết để hủy bỏ biện pháp tạm giam là không xác định, hoàn toàn mang tính chủ quan của
chủ thể áp dụng. Trong thực tiễn, khi áp dụng biện pháp tạm giam đối với bị can phạm tội ít nghiêm trọng, tội nghiêm trọng thì căn cứ đối với họ có thể là cản trở việc điều tra (thông cung, không có mặt khi triệu tập, mua chuộc người làm chứng…). Do đó, cần sửa đổi Điều 173 như sau: “Trong khi tạm giam, nếu căn cứ áp dụng biện pháp tạm giam không còn nữa thì Cơ quan điều tra phải kịp thời đề nghị Viện kiểm sát hủy bỏ việc tạm giam…”. Có như vậy mới làm cho việc áp dụng, thay đổi hay hủy bỏ biện pháp tạm giam có căn cứ rò ràng, nâng cao tinh thần trách nhiệm của cơ quan tiến hành tố tụng và thể hiện nguyên tắc tôn trọng, bảo vệ quyền con người, quyền cơ bản của công dân khi tiến hành tố tụng.
- Sửa đổi, bổ sung quy định về căn cứ áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp ngăn chặn vào các Điều 241, Điều 278 BLTTHS năm 2015. Các điều luật này chỉ quy định thẩm quyền của VKS, Tòa án trong việc áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp ngăn chặn mà không có quy định căn cứ áp dụng, thay đổi hoặc hủy bỏ những biện pháp đó. Điều này dễ tạo ra sự tùy tiện, chủ quan của các chủ thể có thẩm quyền khi áp dụng, thay đổi hoặc hủy bỏ biện pháp ngăn chặn nói chung, biện pháp tạm giam nói riêng. Do đó, cần sửa đổi, bổ sung các điều luật trên theo hướng: sau khi thụ lý vụ án, VKS, Tòa án có quyền áp dụng các biện pháp ngăn chặn khi có căn cứ quy định tại các Điều 119, 121, 122, 123 và 124 BLTTHS, có trách nhiệm hủy bỏ các biện pháp ngăn chặn đó khi không còn căn cứ áp dụng.
Đồng thời, cần sửa đổi, bổ sung Điều 125 theo hướng thay thế cụm từ “không còn cần thiết” ở Khoản 2 bằng cụm từ “không còn căn cứ áp dụng” nhằm quy định rò ràng hơn về căn cứ hủy bỏ biện pháp ngăn chặn nói chung, tạm giam nói riêng, tạo sự thuận lợi cho cơ quan có thẩm quyền khi áp dụng trong thực tiễn.
3.3. Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng biện pháp tạm giam trên địa bàn thành phố Tây Ninh, tỉnh Tây Ninh
3.3.1. Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với việc áp dụng biện pháp tạm giam trong quá trình tố tụng hình sự của cơ quan tiến hành tố tụng thành phố Tây Ninh, tỉnh Tây Ninh
Nguyên tắc Đảng lãnh đạo đối với Nhà nước và xã hội là nguyên tắc Hiến định mang tính tối cao, là nhân tố có ý nghĩa quyết định cho mọi thắng lợi cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Cương lĩnh chính