Cơ Sở Pháp Lý Của Việc Xác Định Điều Kiện Áp Dụng Biện Pháp Khẩn Cấp Tạm Thời

luật về việc áp dụng các BPKCTT không phù hợp, còn có hạn chế, bất cập về điều kiện áp dụng từng BPKCTT cụ thể, thời điểm yêu cầu ADBPKCTT, thời hạn ra quyết định ADBPKCTT, về việc thực hiện biện pháp bảo đảm, về trách nhiệm trong việc áp dụng BPKCTT thì khi áp dụng trên thực tế sẽ nảy sinh những vướng mắc, bất cập làm giảm hiệu quả của việc áp dụng BPKCTT.

KẾT LUẬN CHƯƠNG 1

Bảo vệ các quyền con người là một trong những nhiệm vụ quan trọng hàng đầu trong quá trình xây dựng pháp luật. Trong số các quyền đó, các quyền về dân sự luôn được pháp luật quan tâm đặc biệt. Trong văn bản pháp luật của các quốc gia đều có quy những quy định công nhận cho mỗi cá nhân được quyền tự bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình, trường hợp các quyền, lợi ích hợp pháp bị xâm hại nghiêm trọng mà đương sự không tự bảo vệ được, thì có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết.

Pháp luật nhiều quốc gia trên thế giới đều có quy định về cơ sở pháp lý cho việc ADBPKCTT thông qua việc xác định điều kiện, thẩm quyền, thủ tục và cơ chế bảo đảm khi ADBPKCTT nhằm giải quyết nhu cầu cấp bách của đương sự, bảo toàn tài sản, bảo đảm khả năng thi hành án, tạo điều kiện thuận lợi cho việc giải quyết vụ án. Dù có sự khác biệt giữa các quốc gia trong việc quy định về các BPKCTT nhưng pháp luật cần phải dự liệu nhiều biện pháp với những điều kiện áp dụng khác nhau để đáp ứng kịp thời những tình huống phức tạp phát sinh trong quá trình sơ thẩm vụ án dân sự; các vấn đề về thẩm quyền, thủ tục và quyền phản kháng biện pháp được Tòa án quyết định cũng được cần được pháp luật ghi nhận. Mỗi BPKCTT được áp dụng trong một vụ án cụ thế, phù hợp với một tình huống cụ thế nhằm mục đích giải quyết tốt nhất vụ việc đang tranh chấp. Việc áp dụng BPKCTT trong quá trình giải quyết vụ án dân sự phải hướng đến mục tiêu giải quyết tốt nhất vụ án, bảo vệ kịp thời quyền lợi cho đương sự.

Tuy nhiên, để việc áp dụng BPKCTT đạt được hiệu quả như mong muốn, nhà lập pháp và chủ thể áp dụng BPKCTT phải nắm vững các vấn đề lý luận cơ bản về các BPKCTT như các vấn đề bản chất và phân loại các BPKCTT; đặc điểm của việc áp dụng BPKCTT, các yếu tố chi phối hiệu quả hoạt động ADBPKCTT. Việc nắm rò các vấn đề lý luận cơ bản nêu trên có ý nghĩa vô cùng quan trọng, là tiền đề cho việc xây dựng và áp dụng các quy định của pháp luật về các BPKCTT, từ đó nâng cao hiệu quả áp dụng các BPKCTT trong TTDS.

Chương 2‌‌‌

CƠ SỞ PHÁP LÝ CỦA VIỆC ÁP DỤNG BIỆN PHÁP KHẨN CẤP TẠM THỜI TRONG GIẢI QUYẾT CÁC VỤ ÁN DÂN SỰ TẠI TÒA ÁN CẤP SƠ THẨM


2.1. CƠ SỞ PHÁP LÝ CỦA VIỆC XÁC ĐỊNH ĐIỀU KIỆN ÁP DỤNG BIỆN PHÁP KHẨN CẤP TẠM THỜI

2.1.1. Về cơ sở xác định điều kiện áp dụng biện pháp buộc thực hiện trước một phần nghĩa vụ

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 128 trang tài liệu này.

Buộc thực hiện trước một phần nghĩa vụ là việc người có quyền yêu cầu áp dụng BPKKTT có đơn yêu cầu hoặc Tòa án xét thấy cần thiết buộc bên có nghĩa vụ phải thực hiện trước một phần nghĩa vụ trong quá trình giải quyết các vụ án dân sự. Các quy định về buộc thực hiện trước một phần nghĩa vụ có ý nghĩa quan trọng là kịp thời giải quyết được những nhu cầu cấp bách của đương sự, bảo vệ quyền lợi ích của họ, tránh gây ra những thiệt hại không thể khắc phục được khi chưa có phán quyết chính thức của Tòa án về việc giải quyết vụ án dân sự đó. Các BPKCTT về buộc thực hiện trước một phần nghĩa vụ được xây dựng, ban hành dựa trên nguyên tắc đề cao quyền tự định đoạt của đương sự. Tòa án có quyền tự mình áp dụng các BPKCTT này khi xét thấy cần thiết.

Các BPKCTT về việc buộc thực hiện trước một phần nghĩa vụ được quy định tại các khoản 2, 3, 4 Điều 102 và các điều luật tương ứng khác, từ Điều 104 đến Điều 106 BLTTDS. Khi áp dụng mỗi biện pháp cụ thể, Tòa án cần căn cứ vào các quy định về điều kiện áp dụng được quy định khá cụ thể, chặt chẽtrong BLTTDS và Nghị quyết hướng dẫn của Tòa án nhân dân tối cao đối với mỗi biện pháp:

Áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời trong việc giải quyết vụ án dân sự tại tòa án cấp sơ thẩm - 5

2.1.1.1. Về cơ sở xác định điều kiện áp dụng biện pháp buộc thực hiện trước một phần nghĩa vụ cấp dưỡng

Đây là biện pháp được Tòa án áp dụng nhằm buộc người bị yêu cầu cấp dưỡng (người có nghĩa vụ cấp dưỡng) phải tạm ứng trước một khoản tiền nhất định cho người được cấp dưỡng, để đảm bảo cho người được cấp dưỡng kịp thời giải quyết được những khó khăn trước mắt của họ, để không bị ảnh hưởng đến sức khỏe, đời sống.

Điều kiện áp dụng biện pháp này được quy định tại khoản 2 Điều 102 và Điều 104 BLTTDS và được hướng dẫn áp dụng tại mục 3.2 Nghị quyết số 02/2005/NQ – HĐTP của HĐTPTANDTC, theo đó biện pháp này được áp dụng nếu « việc giải quyết vụ án có liên quan đến yêu cầu cấp dưỡng và Tòa án xét thấy yêu cầu đó là có căn cứ và nếu không thực hiện trước ngay một phần nghĩa vụ cấp dưỡng sẽ ảnh hưởng đến sức khỏe, đời sống của người được cấp dưỡng ».

Với quy định pháp luật nêu trên, thì khi Tòa án áp dụng biện pháp này phải dựa trên những điều kiện nhất định như tính khẩn cấp của vụ việc đang giải quyết « nếu không thực hiện trước…sẽ ảnh hưởng đến sức khỏe, đời sống của người được cấp dưỡng ». Tức là Tòa án căn cứ vào những thiệt hại, hậu quả xấu có thể xảy ra trên thực tế, làm thiệt hại đến quyền, lợi ích của người được cấp dưỡng nếu như không áp dụng ngay biện pháp này, người được cấp dưỡng có thể bị thiệt hại về tính mạng, sức khỏe. Ngoài điều kiện về tính khẩn cấp, khi áp dụng biện pháp này Tòa án còn phải xác định người bị yêu cầu cấp dưỡng là người có nghĩa vụ cấp dưỡng, là người có tài sản, có khả năng cấp dưỡng…Có thể thấy biện pháp này chủ yếu được áp dụng trong các vụ án tranh chấp về hôn nhân gia đình, đặc biệt là các vụ án về ly hôn, yêu cầu cấp dưỡng khi ly hôn …trong đó một bên có yêu cầu cấp dưỡng cho bản thân hoặc cho người khác.

2.1.1.2. Về cơ sở xác định điều kiện áp dụng biện pháp buộc thực hiện trước một phần nghĩa vụ bồi thường thiệt hại do tính mạng, sức khỏe bị xâm phạm

Để kịp thời giải quyết các nhu cấp bách của đương sự, khi có đương sự yêu cầu hoặc Tòa án xét thấy cần thiết, thì trước khi có bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật, Tòa án có thể quyết định áp dụng BPKCTT là « buộc bên có nghĩa vụ phải thực hiện trước một phần nghĩa vụ bồi thường thiệt hại », tức là Tòa án buộc người đã thực hiện hành vi trái pháp luật (người đã thực hiện hành vi xâm phạm tính mạng, sức khỏe của người khác) phải ứng trước một khoản tiền nhất định, để bồi thường cho người bị hại, với mục đích để người bị thiệt hại kịp thời giải quyết những khó khăn, nhu cầu cấp bách trước mắt của họ.

Điều kiện áp dụng biện pháp này được quy định tại Điều 105 BLTTDS, theo đó biện pháp này được áp dụng khi có các điều kiện : « ...việc giải quyết vụ án có liên quan đến yêu cầu đòi bồi thường thiệt hại do tính mạng, sức khỏe bị xâm phạm và xét thấy yêu cầu đó là có căn cứ và cần thiết ».

Như vậy, áp dụng biện biện pháp này phải dựa trên hai điều kiện:

Thứ nhất, vụ án mà Tòa án đang giải quyết có liên quan đến yêu cầu đòi bồi thường thiệt hại về tính mạng, sức khỏe. Đối với điều kiện này, Tòa án dựa trên yêu cầu của người có quyền yêu cầu áp dụng BPKCTT, hoặc Tòa án tự mình áp dụng nếu xét thấy cần thiết.

Thứ hai, yêu cầu đó là có « căn cứ » và « cần thiết ». Đối với điều kiện thứ hai, việc xác định yêu cầu đòi bồi thường thiệt hại do tính mạng, sức khỏe bị xâm hại như thế nào là có « căn cứ » và « cần thiết » do Thẩm phán giải quyết vụ việc dân sự đó quyết định dựa trên việc xác định có hay không hành vi xâm hại về tính mạng, sức khỏe; tính chất, mức độ của hành vi xâm hại, người thực hiện hành vi xâm hại phải có lỗi và người đó có khả năng về kinh tế để thực hiện ngay việc bồi thường…tình trạng sức khỏe của người bị xâm

hại, hoàn cảnh kinh tế của người đó… nếu xét thấy người bị xâm hại lâm vào tình trạng nguy hiểm đến tính mạng, bị mất việc làm, hoàn cảnh kinh tế khó khăn…nếu không áp dụng ngay biện pháp buộc thực hiện trước một phần nghĩa vụ bồi thường thiệt hại sẽ gây ra những hậu quả xấu không thể khắc phục được cho người đó thì Tòa án áp dụng biện pháp này để kịp thời giải quyết các nhu cầu cấp bách của họ, trước khi có bản án, quyết định chính thức của Tòa án. Điều này cũng thể hiện tính cấp bách, khẩn cấp của việc áp dụng BPKCTT buộc thực hiện trước một phần nghĩa vụ bồi thường do tính mạng, sức khỏe bị xâm hại.

2.1.1.3. Về cơ sở xác định điều kiện áp dụng biện pháp buộc người sử dụng lao động tạm ứng tiền lương, tiền công, tiền bồi thường, trợ cấp tai nạn lao động hoặc bệnh nghề nghiệp cho người lao động

Biện pháp buộc người sử dụng lao động tạm ứng tiền lương, tiền công, tiền bồi thường, trợ cấp tai nạn lao động hoặc bệnh nghề nghiệp cho người lao động, được Tòa án quyết định nhằm buộc người sử dụng lao động phải ứng trước một khoản tiền nhất định, để thanh toán tiền lương, tiền công, tiền bồi thường, trợ cấp tai nạn lao động hoặc bệnh nghề nghiệp cho người lao động, để họ đảm bảo được cuộc sống tối thiểu cho mình và những người mà họ có nghĩa vụ nuôi dưỡng. Điều kiện áp dụng biện pháp này được quy định tại Điều 106 BLTTDS, theo đó Tòa án áp dụng biện pháp này « …nếu việc giải quyết vụ án có liên quan đến yêu cầu trả tiền lương, tiền công, tiền bồi thường, trợ cấp tai nạn lao động hoặc bệnh nghề nghiệp cho người lao động ».

Đây là BPKCTT có ý nghĩa rất quan trọng, thiết thực vì vậy, cũng giống như hai biện pháp trên, nó được áp dụng dựa trên yêu cầu của đương sự, hoặc Tòa án tự mình áp dụng nếu xét thấy có căn cứ và cần thiết. Khi áp dụng biện pháp này Tòa án phải dựa trên pháp luật để xác định tính có « căn cứ » và tính « cần thiết » dựa trên tính « khẩn cấp » của vụ việc đang được giải quyết. Ví dụ, trường hợp người lao động nếu không được thanh toán tiền

lương, tiền công, tiền bồi thường…kịp thời sẽ ảnh hưởng nghiêm trọng đến đời sống, sinh hoạt của chính bản thân người đó và gia đình, như không có tiền để chi tiêu, mua lương thực, thực phẩm, thuốc thang…những thứ thiết yếu khác phục vụ cuộc sống hàng ngày, hoặc nếu không kịp thời nhận được trợ cấp do bị tai nạn, hoặc bị bệnh nghề nghiệp thì tình trạng sức khỏe của người lao động có thểt xấu đi, bệnh tình của họ có thể bị nặng thêm, hoặc đe dọa đến tính mạng. Chính vì tính khẩn cấp như vậy, nên việc áp dụng BPKCTT này sẽ đạt được hiệu quả rất quan trọng, kịp thời bảo vệ quyền lợi cho người lao động.‌

2.1.2. Về cơ sở xác định điều kiện áp dụng biện pháp đối với tài sản đang tranh chấp

2.1.2.1. Về cơ sở xác định điều kiện áp dụng biện pháp kê biên tài sản đang tranh chấp

Kê biên tài sản đang tranh chấp là trường hợp Tòa án tiến hành kiểm kê, thống kê những tài sản đang tranh chấp trong vụ kiện để nắm rò về tình trạng của những tài sản đó và buộc người đang giữ tài sản tranh chấp không được chuyển dịch, tẩu tán hay phá hủy tài sản đang có tranh chấp đó.

Tài sản bị kê biên có thể được thu giữ, bảo quản tại cơ quan thi hành án hoặc hoặc lập biên bản giao cho một bên đương sự hoặc người thứ ba quản lý cho đến khi có quyết định của Tòa án. Biện pháp này được xây dựng dựa trên nguyên tắc quyền tự định đoạt của đương sự, do đó nó chỉ được áp dụng khi có yêu cầu của đương sự.

Là một biện pháp quan trọng, kê biên tài sản đang tranh chấp được quy định tại khoản 6 Điều 102 BLTTDS, điều kiện áp dụng biện pháp này được quy định tại Điều 108 BLTTDS, theo đó biện pháp này được áp dụng nếu:

« …có căn cứ cho thấy người giữ tài sản đang tranh chấp có hành vi tẩu tán, hủy hoại tài sản ». Theo các quy định pháp luật nêu trên, thì điều kiện áp dụng biện pháp này phải dựa trên hai căn cứ :

- Thứ nhất: Đối tượng bị kê biên phải là tài sản đang tranh chấp

Như vậy, chỉ những tài sản đang tranh chấp, đang chờ phán quyết của Tòa án nhằm xác định chính thức chủ thể nào có quyền sở hữu đối với tài sản đó mới là đối tượng của biện pháp kê biên. Những tài sản khác không có tranh chấp, thì không bị áp dụng biện pháp này. Quy định nêu trên là chưa thực sự phù hợp, chưa phát huy được tối đa hiệu quả của BPKCTT là kê biên. Bởi lẽ, các tranh chấp dân sự xảy ra trên thực tế, có đối tượng tranh chấp là một tài sản cụ thể xảy ra không nhiều, nhưng các tranh chấp liên quan đến tài sản hoặc thông qua một vụ việc tranh chấp cụ thể các vấn đề về tài sản đương sự yêu cầu Tòa án giải quyết diễn ra rất phổ biến. Có thể khẳng định rằng, dù các vụ việc tranh chấp giữa các đương sự thuộc loại tranh chấp nào đi chăng nữa (tranh chấp về tài sản, tranh chấp về việc thực hiện hợp đồng, lao động, hôn nhân gia đình, kinh doanh thương mại…) thì cuối cùng cũng đều liên quan đến vấn đề tài sản. Do đó, theo điều luật quy định nếu chỉ những tài sản cụ thể đang tranh chấp, thì đương sự mới có quyền yêu cầu Tòa án áp dụng biện pháp KCTT là kê biên, vậy những tài sản khác của người có nghĩa vụ có khả năng đảm bảo thi hành án nhưng không bị áp dụng biện pháp này thì sẽ có lợi cho người có nghĩa vụ, ngược lại sẽ không đảm bảo về quyền lợi cho người có quyền. Vì vậy, BLTTDS cần quy định mở rộng phạm vi tài sản bị áp dụng biện pháp kê biên là toàn bộ các tài sản có khả năng thi hành án của người bị áp dụng BPKCTT mà không phải chỉ áp dụng đối với những tài sản đang có tranh chấp như quy định hiện nay.

- Thứ hai: Có căn cứ cho thấy người giữ tài sản đang tranh chấp có hành vi tẩu tán, hủy hoại tài sản.

Quy định này được hiểu, trong vụ kiện dân sự, nếu người yêu cầu áp dụng BPKCTT là kê biên tài sản đang tranh chấp, người đó phải đưa ra được các chứng cứ chứng minh tài sản đang tranh chấp có thể bị người đang giữ tài sản tẩu tán, hủy hoại. Chỉ cần đưa ra được những căn cứ thể hiện được rằng tài sản đang tranh chấp đó có nguy cơ bị tẩu án, hủy hoại chứ không cần phải

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 26/06/2022