Trong phát triển sản xuất nông nghiệp, trang thiết bị máy móc phục vụ cho sản xuất là một yếu cầu khách quan và quan trọng. Việc trang bị máy móc thiết bị vào sản xuất, một mặt làm giảm sức lao động chân tay của con người, mặt khác làm tăng năng suất lao động, năng suất đất đai, từ đó giải phóng một phần lao động thủ công, làm tăng khả năng được tiếp cận nguồn nước phục vụ sản xuất nông nghiệp.
Qua bảng số liệu trên cho thấy tình hình trang thiết những máy móc thiết yếu còn thấp, với tổng tài sản trung bình của nhóm khó khăn nhất là 2,42 cái, nhóm thuận lợi nhất là 1,89 cái và 2 nhóm cao nhất là nhóm thuận lợi 2,78 cái và nhóm khó khăn là 2,69, cụ thể:
Máy cày bình quân của nhóm khó khăn nhất là 0,3 cái chiếm 12,3% tổng tài sản của nhóm, thì nhóm thuận lợi nhất cũng chỉ 0,4 cái, chiếm 21,2% tổng tài sản của nhóm.
Máy tuốt lúa của 3 nhóm khó khăn nhất, khó khăn và thuận lợi trung bình là 1cái, trong khi đó nhóm thuận lợi nhất là 0,5cái. Nhóm khó khăn nhất trung bình là 1 cái chiếm 41,3% tổng tài sản của nhóm. Nhóm thuận lợi nhất là 0,5 cái, bằng 26,4% tổng tài sản đầu tư cho nông nghiệp của nhóm. Từ đó cho thấy việc đầu tư về máy tuốt lúa của nhóm thuận lợi nhất là không cao so với các nhóm.
Là địa phương với kinh tế chủ yếu là nông nghiệp, tiếp cận được một cách tốt nhất nguồn nước là điều vô cùng quan trọng, vì vậy máy bơm nước là quan trọng đối với việc tưới tiêu. Qua bảng trên cho thấy, sự đầu tư về máy bơm của các nhóm là chưa nhiều, cụ thể: Nhóm khó khăn nhất trung bình là 0,12cái, chiếm 4,9% tổng tài sản của nhóm, nhóm khó khăn là 0,09cái, chiếm 3,3%. Nhóm thuận lợi là 0,28cái chiếm 10% và nhóm thuận lợi nhất là 0,09cái chiếm 4,7% tổng tài sản của nhóm.
Qua bảng trên cho thấy, tỷ trọng máy bơm nước trên tổng tài sản phục vụ cho sản xuất nông nghiệp của các nhóm là khác nhau, cụ thể: Nhóm thuận lợi cao nhất với 10% là máy bơm nước, do đặc điểm địa hình của nhóm này tốt, việc tiếp cận nguồn nước là khá dễ dàng. Tuy nhiên có một số còn có diện tích đất canh tác nằm cao hơn kênh mương dẫn nước cho nên sự đầu tư về máy bơm là hợp lý. Đứng thứ 2 là nhóm khó khăn, với đặc điểm không thuận lợi trong việc tiếp cận nguồn nước, việc đầu tư các máy móc để dẫn nước, bơm nước là vô cùng cần thiết, nó giúp nhóm hộ này có thể bơm dẫ nước từ xa về để phục vụ tưới tiêu. Đối với nhóm khó khăn, là nhómđược hưởng điều kiện về thuỷ lợi, tuy nhiên còn nằm xa nguồn nước, các kênh mương dẫn nước, hoặc có kênh mương dẫn nước đến nhưng do kênh mương chưa kiên cố, dẫn đến sự ngấm nước, làm cho nước chưa kịp đến với diện tích cần tưới tươi đã bị ngấm hết, do vậy cần đầu tư thêm máy móc để để dẫn nước và giữ nước, phục vụ sản xuất nông nghiệp.
2.2.2 Tình hình phát triển sản xuất nông nghiệp của hộ
2.2.2.1 Kết quả sản xuất nông nghiệp của nhóm hộ điều tra
Bảng 2.10: Kết quả sản xuất ngành nông nghiệp của hộ
ĐVT: 1.000đ
Rất thuận lợi | Thuận lợi | Khó khăn | Rất khó khăn | |
Tổng thu từ nông nghiệp | 7.448,96 | 11.825,19 | 10.219,78 | 8.598,09 |
- Thu từ trồng trọt | 4.139,91 | 6.152,82 | 6.685,44 | 4.374,87 |
- Thu từ chăn nuôi | 3.044,04 | 5.072,36 | 2.888,8 | 3.634,88 |
- Thu từ lâm nghiệp | 265 | 600 | 654,54 | 588,33 |
Có thể bạn quan tâm!
- Chỉ Tiêu Phản Ánh Khả Năng Tiếp Cận Nguồn Nước Của Hộ
- Tổng Diện Tích Đất Tự Nhiên Xã Tân Lập Năm 2007
- Đánh Giá Những Tác Động Của Điều Kiện Tự Nhiên – Kinh Tế - Xã Hội Phát Triển Nông Nghiệp Và Hạ Tầng Thuỷ Lợi Của Địa Phương
- Chi Phí Sản Xuất Lúa Của Nhóm Hộ Điều Tra (Tính Cho Bq 1 Sào)
- Phân Tích Ảnh Hưởng Của Khả Năng Tiếp Cận Nguồn Nước Đến Thu Nhập Của Hộ
- Ảnh hưởng của việc tiếp cận nguồn nước đến thu nhập của hộ nông dân xã Tân Lập, huyện Chợ Đồn, Bắc Kạn - 11
Xem toàn bộ 115 trang tài liệu này.
(Nguồn: Số liệu điều tra năm 2007)
Qua bảng kết quả sản xuất ngành nông nghiệp của hộ cho thấy, hầu hết các khoản thu nhập của hộ đều từ nông nghiệp. Tổng thu nhập bình quân của
nhóm khó khăn nhất sau khi đã trừ chi phí là 8.598,09 nghìn đồng, trong đó thu từ trồng trọt là 4.374,87 nghìn đồng chiếm 50,8% tổng thu từ nông nghiệp, thu từ chăn nuôi là 3.634,88 nghìn đồng chiếm 42,2%, thu từ lâm nghiệp là 588,33 nghìn đồng chiếm 6,8%, qua đó cho thấy thu nhập từ trồng trọt của nhóm này chiếm tỷ trọng cao hơn so với thu từ chăn nuôi và lâm nghiệp.
Nhóm thuận lợi nhất có tổng thu nhập bình quân từ nông nghiệp là 7.448,96 nghìn đồng, trong đó thu từ trồng trọt là 4.139,91 nghìn đồng chiếm 55,6%, thu từ chăn nuôi là 3.044,04 nghìn đồng chiếm 40,8% và thu từ lâm nghiệp là 265 nghìn đồng chiếm 3,5%. So sánh giữa 2 nhóm trên ta thấy, thu từ trồng trọt của nhóm thuận lợi nhất chiếm tỷ trọng trong tổng thu từ nông nghiệp lớn hơn nhóm khó khăn là 4,8%. Tuy nhiên
Qua nghiên cứu tình hình thu nhập và cơ cấu thu nhập của các nhóm hộ điều tra của xã Tân Lập có thể nhânh thấy tình trạng thuần nông của sản xuất nông nghiệp. Để đưa ra cái nhìn sâu hơn về vấn đề sản xuất và thu nhập của hộ từ việc tiếp cận nguồn nước, ta đi phân tích, đánh giá tình hình sản xuất trồng trọt và chăn nuôi của nhóm hộ điều tra.
Bảng 2.11: Kết quả sản xuất ngành trồng trọt của hộ
ĐVT: 1000đ
Rất thuận lợi | Thuận lợi | Khó khăn | Rất khó khăn | |
Tổng số | 4.139,92 | 6.152,82 | 6.685.44 | 4.374,87 |
- Thu từ lúa | 3.931,92 | 5.100,40 | 4.774,64 | 3.209,55 |
- Ngô | 634,47 | 973,47 | 1.894,8 | 1.141,13 |
- Đậu đỗ | 73,53 | 78,95 | 16 | 24,19 |
(Nguồn: Số liệu điều tra năm 2007)
Là một xã nghèo vùng xâu vùng xa, điều kiện còn khó khăn, kỹ thuật gieo trồng còn thủ công và lạc hậu, chưa áp dụng được sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật vào sản xuất nông nghiệp.
Thu nhập của các hộ trông xã đều chủ yếu từ nông nghiệp, nhưng thu nhập từ các loại cây trồng và các vùng khác nhau, do quy mô và do sự tiếp cận nguồn nước, do diện tích canh tác. Bảng 2.11 cho thấy thu nhập bình quân từ lúa của nhóm khó khăn nhất về tiếp cận nguồn nước là 3.209,55 đồng, so với nhóm hộ tiếp cận tốt nhất là 3.931,92, thấp hơn 722,37 đồng bằng 81,6% so với nhóm thuận lợi nhất về nguồn nước. Trong khi đó thu nhập từ trồng ngô của nhóm khó khăn nhất trung bình là 1.141,13 đồng so với 634,47 đồng của nhóm thuận lợi nhất, nhiều hơn 506,66 đồng. Qua bảng ta thấy rằng, thu nhập từ lúa của nhóm hộ khó khăn nhất trong việc tiếp cận nguồn nước thấp hơn so với nhóm thuận lợi nhất, tuy nhiên sản lượng ngô lại cao hơn, từ đó cho thấy, vùng tiếp cận nguồn nước khó khăn nhất đã biết chuyển đổi cây trồng để phù hợp với khí khậu và đất đai. Do cây ngô có chi phí thấp hơn và chịu sự khô cằn tốt hơn so với cây lúa.
Đồ thị biểu thị thu nhập từ lúa của nhóm hộ điều tra
RÊt thuËn lîi ThuËn lîi Khã kh¨n
RÊt khã kh¨n
5100.4
4774.64
6000
3931.92
3209.55
5000
4000
1894.8
1141.13
3000
634.47
973.47
2000
73.53
78.95
16
24.19
1000
0
Thu tò lóa Ng« §ç
Bảng 2.12: Kết quả sản xuất ngành chăn nuôi của hộ
ĐVT: 1.000 đồng
Rất thuận lợi | Thuận lợi | Khó khăn | Rất khó khăn | |
Tổng số | 3.044,04 | 5.072,36 | 2.888,8 | 3.634,88 |
- Lợn | 2.973,45 | 5.013,15 | 2.741,2 | 3.315,61 |
- Trâu, bò | - | - | - | 258,06 |
- Gia cầm | 70,59 | 59,21 | 147,6 | 61,21 |
(Nguồn: Số liệu điều tra năm 2007)
Bắc Kạn là một tỉnh với nền nông nghiệp là chính. Dù ngành chăn nuôi chưa đóng góp nhiều cho thu nhập của tỉnh và của người dân, chưa thực sự nổi bật nhưng không phải vì thế nó không có những lợi thế trong quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Để chăn nuôi thực sự trở thành một ngành kinh tế mũi nhọn, rất cần phải nhìn thẳng vào sự thật và đổi mới thực sự nhận thức chung về vấn đề này.
Nền kinh tế chủ yếu là nông nghiệp, tự cung tự cấp, nhu cầu thực phẩm của người dân ngày càng tăng, song sản phẩm chăn nuôi vẫn chưa đáp ứng đủ nhu cầu tiêu dùng cho người dân xã Tân Lập. Do chưa thực sự có cách tiếp cận mới, chăn nuôi truyền thống vẫn chiếm tỷ lệ cao, với những đặc điểm nổi bật là nhỏ lẻ, phân tán, số lượng không tập trung đủ lớn để trở thành sản phẩm hàng hóa, không đồng nhất về chất lượng, chưa chú trọng đến tính kế hoạch thị trường và hạch toán về hiệu quả kinh tế. Phương thức chăn nuôi này tuy có nhiều nhược điểm, nhưng là nguồn thực phẩm và thu nhập cần thiết nâng cao mức sống của người dân.
Tổng thu nhập bình quân từ chăn nuôi của nhóm khó khăn nhất trong việc tiếp cận nguồn nước là 3.634,88 nghìn đồng, trong đó thu từ chăn nuôi lợn là 3.315,61 nghìn đồng, chiếm 91,2% tổng thu nhập từ chăn nuôi của
nhóm. Thu nhập của nhóm thuận lợi nhất từ chăn nuôi lợn là 2.973,45 nghìn đồng, chiếm 97,6% tổng thu nhập từ chăn nuôi của nhóm. Bảng 2.12 cho thấy vùng tiếp cận nguồn nước thuận lợi nhất có thu nhập bình quân từ nuôi lợn chiếm tỷ trọng trong tổng thu nhập từ chăn nuôi lớn, tuy nhiên thu nhập bình quân từ chăn nuôi lợn so với nhóm hộ khó khăn về nguồn nước còn thấp hơn, bên cạnh đó thu nhập từ chăn nuôi trâu, bò là không có, trong khi đó nhóm hộ khó khăn nhất thu nhập bình quân từ chăn nuôi Trâu và Bò là 258,06đồng, bằng 7% tổng thu nhập của nhóm.
Đặc điểm các thôn trong vùng trung tâm xã là vùng được tiếp nguồn nước thuận lợi nhất, dân cư mới di dời đến, tập trung chủ yếu là cán bộ xã, nhà ít lao động, dẫn đến việc chăn nuôi ít được chú trọng, ví dụ chăn nuôi trâu bò, do vậy thu nhập chủ yếu tập trung vào trồng trọt.
Bên cạnh đó, bảng 2.12 cho thấy, thu nhập từ chăn nuôi của nhóm thuận lợi về nguồn nước cao nhất, với tổng thu nhập từ chăn nuôi là 5.072,26 đồng, trong đó thu nhập từ chăn nuôi lợn là 5.013,15 đồng chiếm 98,8%, chiếm tỷ trọng chủ yếu trong tổng thu nhập từ chăn nuôi. Do đặc điểm địa hình nằm ven trung tâm và ở các triền đồi thấp, cho nên việc tiếp cận nguồn nước tốt, diện tích chăn thả rộng, thuận lợi cho việc thả lợn ăn tự do, cho nên nhóm đã tập trung vào chăn nuôi chủ yếu là lợn, phù hợp với tập quán chăn nuôi lợn của vùng.
Nhóm khó khăn về tiếp cận nguồn nước có thu nhập từ chăn nuôi thấp nhất, với tổng thu nhập bình quân là 2.888,8 đồng, trong đó thu từ chăn nuôi lợn là 2.741,2 đồng , thấp hơn thu nhập từ chăn nuôi lợn của nhóm thuận lợi (nhóm có thu nhập cao nhất từ chăn nuôi lợn) là 2.271,95 đồng bằng 54,6%. Tuy nhiên, bảng 2.12 cho ta thấy thu nhập trung bình từ chăn nuôi gia cầm của nhóm là 147,6 đồng, cao nhất trong 4 nhóm, chiếm 5,1% tổng thu nhập từ chăn nuôi của nhóm.
Thu nhập bình quân từ chăn nuôi lợn của các nhóm là chênh lệch nhau. Thu nhập từ chăn nuôi lợn của nhóm khó khăn nhất trong việc tiếp cận nguồn nước chiếm 91,2% tổng thu nhập từ chăn nuôi. Nhóm khó khăn chiếm 94,8%, nhóm thuận lợi 98,8% và nhóm rất thuận lợi là 97,6%. Qua đó cho chúng ta thấy thu nhập từ chăn nuôi lợn của nhóm thuận lợi chiếm tỷ trọng lớn nhất trong tổng thu từ chăn nuôi. Nhóm khó khăn có thu nhập từ chăn nuôi lợn thâp nhất, tuy nhiên thu nhập từ chăn nuôi gia cầm lại cao nhất.
Bảng 2.13: Chi phí ngành trồng trọt của hộ
ĐVT: 1.000 đồng
Rất thuận lợi | Thuận lợi | Khó khăn | Rất khó khăn | |
Tổng số | 5.897,33 | 3.906,59 | 3.149,23 | 2.494,35 |
- Giống | 327,1 | 392,17 | 475,1 | 280,06 |
- Phân bón | 523,95 | 673,4 | 643,23 | 533,5 |
- Dịch vụ mua ngoài | 5.000 | 3.135 | 1.930 | 1.680 |
- Chi phí lđ thuê ngoài | 45,58 | 38,89 | - | - |
(Nguồn: Số liệu điều tra năm 2007)
Qua bảng 2.13 ta thấy, tổng chi phí ngành trồng trọt của các hộ giảm dần từ nhóm rất thuận lợi đến nhóm rất khó khăn, cụ thể, nhóm rất thuận lợi có tổng chi phí bình quân là 5.897.000,33 đồng, nhóm thuận lợi là 3.906.000,59 đồng, nhóm khó khăn là 3.149.000,23 đồng và nhóm rất khó khăn là 2.494.000,35 đồng. Thực tế có sự chênh lệch đó là do, có sự chênh lệch về dịch vụ thuê ngoài, nhóm rất thuận lợi có thuận lợi về nguồn vốn, thuê máy bơm nước vào những thời điểm khó khăn về nước, thuê máy tuốt lúa… , vì vậy chi phí dịch vụ của họ cao so với các nhóm khác.
Về chi phí lao động thuê ngoài, chỉ 2 nhóm rất thuận lợi và thuận lợi có chi phí. Nhóm rất thuận lợi do có số lao động bình quân ít nhất trong các
nhóm với 2,23 người/hộ, nên phải chi phí 45,58 nghìn đồng/hộ. Nhóm thuận lợi có chi phí thuê ngoài là 38,89 nghìn đồng/hộ. Hai nhóm khó khăn và rất khó khăn cũng có nhu cầu thuê lao động để phục vụ sản xuất, nhưng do điều kiện về nguồn vốn không cho phép họ thực hiện điều này. Lượng phân bón các nhóm hộ sử dụng không chênh lệch nhau nhiều.
Bảng 2.14: Chi phí ngành chăn nuôi của hộ
ĐVT: 1.000 đồng
Rất thuận lợi | Thuận lợi | Khó khăn | Rất khó khăn | |
Tổng số | 967,79 | 1.315,11 | 996,48 | 940,59 |
- Giống | 888,76 | 1157,92 | 884,08 | 820,28 |
- Thức ăn xanh | 68,53 | 129,89 | 93,2 | 112,25 |
- Công lao động | 10,5 | 27,3 | 19,2 | 8,06 |
(Nguồn: Số liệu điều tra năm 2007)
Qua bảng 2.14 cho ta thấy, tổng chi phí ngành chăn nuôi của nhóm hộ thuận lợi là cao nhất, do nhóm hộ này nuôi số lượng lợn nhiều nhất, với chi phí giống là 1.157.000,92 đồng, chi phí thức ăn là 129,89 nghìn đồng. Các nhóm hộ không tiến hành mua thức ăn tinh, vì họ đã tận dụng các thức ăn xanh trồng được và các sản phẩm phụ từ lúa như rơm, rạ, cám xát từ thóc. Thực tế chi phí chăn nuôi của các nhóm hộ chủ yếu đối với lợn, và con vật nuôi này cũng đem lại nguồn thu nhập chủ yếu cho các hộ nông dân nơi đây