Ảnh hưởng của việc tiếp cận nguồn nước đến thu nhập của hộ nông dân xã Tân Lập, huyện Chợ Đồn, Bắc Kạn - 11


thể thấy qua nhiều chủ trương, chính sách cụ thể, đặc biệt cuối tháng 9 vừa qua Chính phủ đã triệu tập một hội nghị chuyên đề để bàn về phát triển kinh tế - xã hội của 6 tỉnh này. Để góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội của các tỉnh, tác giả đưa ra một số giải pháp về khoa học và công nghệ nhằm phát triển lĩnh vực thủy lợi - một bộ phận của kết cấu hạ tầng, vấn đề quan trọng đang được các địa phương này quan tâm.

Công tác thuỷ lợi nói chung, công tác khoa học và công nghệ (KH&CN) thuỷ lợi nói riêng có vai trò quan trọng góp phần thực hiện các chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước về phát triển kinh tế - xã hội (KT - XH) các tỉnh miền núi.

Theo số liệu thống kê của Viện khoa học thuỷ lợi (KHTL), không kể những công trình lớn như Thác Bà, Hoà Bình, đến nay tại khu vực miền núi phía Bắc, Nhà nước và nhân dân địa phương đã xây dựng được 893 hồ chứa nước loại vừa và nhỏ; 1 200 đập dâng; hàng trăm công trình thuỷ luân, thuỷ điện nhỏ, trạm bơm; hàng vạn trạm thuỷ điện cực nhỏ có công suất 0,3-0,6 kw; hàng vạn công trình trung, tiểu thuỷ nông gồm kênh dẫn, mương phai; hàng chục vạn bể chứa, giếng nước phục vụ sinh hoạt và sản xuất; hàng trăm kilômét đường ống dẫn nước kiên cố; đã phục vụ tưới chắc cho 100 000 ha lúa chiêm, 210 000 ha lúa mùa, cung cấp 20 000 kW điện, giải quyết nước sinh hoạt hợp vệ sinh cho hơn 30 vạn dân ở các vùng khan hiếm nước, vùng núi đá, vùng biên giới và các vùng dân cư, kinh tế tập trung. Tuy nhiên, các công trình thuỷ lợi ở đây còn bộc lộ nhiều nhược điểm, chưa đáp ứng được yêu cầu về số lượng và chất lượng phục vụ nhiệm vụ phát triển KT-XH của các tỉnh trong tình hình mới.

Các công trình tạm, bán kiên cố còn chiếm tỷ lệ cao; các công trình do Nhà nước đầu tư, thường mới chỉ kiên cố công trình đầu mối, còn kênh mương do dân tự làm, công trình bị xuống cấp nghiêm trọng, nên hiệu suất


còn rất thấp. Ví dụ: Trong tổng số 4 524 phai đập thì mới kiên cố được 1 200 đầu mối, chiếm 26,5% (chưa kể các công trình kiên cố còn bị xuống cấp nghiêm trọng); các công trình thuỷ luân, thuỷ điện nhỏ đã được xây dựng đến nay chỉ còn dưới 50% số trạm hoạt động.

Để góp phần phát triển KT-XH các tỉnh miền núi phía Bắc, nhất là 6 tỉnh thuộc diện đặc biệt khó khăn (Sơn La, Lai Châu, Lào Cai, Hà Giang, Cao Bằng và Bắc Cạn), theo chúng tôi việc phát triển thuỷ lợi ở đây phải gắn với việc xây dựng hồ chứa nước, kết hợp thuỷ điện nhỏ để cung cấp nước, điện cho đời sống và sản xuất ở vùng thiếu nước, vùng sâu, vùng xa. Cụ thể là:

Nâng cấp, tu bổ và kiên cố hoá công trình và cụm công trình đầu mối, hoàn chỉnh các hệ thống kênh mương để phát huy hiệu suất các công trình hiện có.

Xây dựng một số công trình mới tại các khu vực sản xuất lương thực tập trung và có tiềm năng, kết hợp với việc cấp nước cho các cụm dân cư, thị trấn, thị xã, khu công nghiệp.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 115 trang tài liệu này.

Tăng cường trồng rừng kết hợp với làm hồ chứa nước nhỏ, ruộng bậc thang nhằm bảo vệ tầng phủ, giảm lũ, giữ ẩm và tăng nguồn sinh thuỷ.

Nghiên cứu xây dựng kè bảo vệ các đoạn sông suối, đặc biệt là sông biên giới, kiểm soát nguồn nước và chất lượng nước vào lãnh thổ Việt Nam, phòng chống lũ quét, lũ ống miền núi.

Ảnh hưởng của việc tiếp cận nguồn nước đến thu nhập của hộ nông dân xã Tân Lập, huyện Chợ Đồn, Bắc Kạn - 11

Nhà nước đầu tư vốn ngân sách cho việc xây dựng các công trình thuỷ lợi đầu mối, địa phương huy động nhân dân đóng góp công lao động để xây dựng, tu bổ các hệ thống kênh mương.

Xây dựng hệ thống thuỷ điện nhỏ cung cấp điện sinh hoạt cho đồng bào vùng sâu, vùng xa, nơi không có điện lưới quốc gia.

Cải tạo nâng cấp, mở rộng công trình cấp nước tự chảy: Đập dâng, hồ chứa, kênh mương.


Đối với công trình đập dâng (bao gồm đập tạm, bán kiên cố, kiên cố): Phai đập tạm như phai gối, phai chân ếch, phai cũi, do nhân dân tự làm là chủ yếu. Loại này xây dựng đơn giản nhưng phải sửa chữa, làm lại hàng năm, hơn nữa các loại vật liệu để xây dựng tại chỗ hiếm, đặc biệt là gỗ không được phép khai thác tự do, vì thế không nên phát triển .

Đối với vùng núi nên cố gắng đầu tư xây dựng các loại phai đập bán kiên cố như phai rọ đá, phai đá xếp (phai rọ đá hiện nay được dùng khá phổ biến vì công nghệ và vật liệu làm rọ đá không khó khăn như thập niên 60-70, thép làm rọ có thể được mạ lớp chống rỉ, hoặc bọc nhựa, bọc composite) và các loại phai đập kiên cố như đập đá xây hoặc bê tông; đập có lòi đất đá, được bọc đá xây hoặc bê tông; đập đá đổ cải tiến; phai đập tự động nâng lên, hạ xuống theo mùa vụ.

Hồ chứa nước: Chú ý sửa chữa, nâng cấp cải tạo hệ thống đóng mở điều tiết hồ, chống thẩm lậu. Hầu hết hồ chứa ở miền núi là loại nhỏ, có dung tích trên dưới 1 triệu mét khối, chiều cao đập xấp xỉ 10 m, diện tích tưới vài chục hecta nên lưu lượng qua cống nhỏ, tiết diện cống bé, do đó vấn đề kín nước cửa van và thao tác đóng mở cửa cống là rất quan trọng, cần được lưu ý.

Hệ thống kênh mương, cầu máng: Hầu hết các hệ thống kênh mương miền núi đều không hoàn chỉnh, hay bị sạt lở. Vì vậy cần đẩy mạnh việc kiên cố hóa.

Ngoài ra có thể áp dụng công nghệ tưới cây vùng đồi bằng vòi phun, nhỏ giọt áp lực thấp đã được một số cơ quan trong nước nghiên cứu, chế tạo và áp dụng ở miền núi như các loại vòi phun bằng nhựa, bằng đồng...

* Phát triển thuỷ luân, thuỷ điện nhỏ, trạm bơm

Việc cấp điện cũng như cấp nước sinh hoạt ở miền núi cần được giải quyết theo hướng triệt để kết hợp với công trình thuỷ lợi để lắp đặt thiết bị. Thấy trước được vấn đề khó khăn về thiết bị, nhiều năm qua Viện KHTL đã


chủ động nghiên cứu chế tạo trong nước nhiều loại thiết bị thủy luân, thuỷ điện nhỏ có kết hợp chạy các máy xay xát nông sản. Đến nay chúng ta có lực lượng để giải quyết đủ yêu cầu về thiết bị thuỷ luân, thuỷ điện nhỏ và hiện đang tập trung nghiên cứu nâng cao chất lượng thiết bị (như hiệu suất, độ bền) và giảm giá thành sản phẩm để đáp ứng tốt hơn nhu cầu về các dạng thiết bị này của các địa phương miền núi.

Do đặc điểm của sông suối miền núi là có mức dao động mực nước lớn giữa mùa lũ và mùa kiệt nên thiết bị bơm nước phải đáp ứng được yêu cầu đó. Giải pháp bơm sử dụng năng lượng truyền thống, do chi phí vận hành cao nên chỉ được sử dụng cho vùng có cột nước bơm thấp hoặc cho cây trồng có giá trị kinh tế cao. Giải pháp sử dụng năng lượng nước như dốc nước, thác nước, đập dâng để xây dựng, lắp đặt các loại bơm như bơm va, bơm thuỷ luân là phù hợp, vì công nghệ này chưa được sử dụng rộng rãi nên còn nhiều địa điểm có thể tận dụng được. Ngoài những công trình xây dựng mới, thì ngay trong hệ thống thuỷ lợi đã có cũng có thể lợi dụng các bậc nước ở sau đập, ở trên kênh để lắp đặt chúng, góp phần nâng cao hiệu quả tưới và cấp nước sinh hoạt của công trình. Công nghệ này có thể đưa nước lên cao (10-100m) tạo nguồn nước để cấp nước cho vùng đất dốc, cho cây ăn quả, cây công nghiệp, cho nuôi cá, có thể dẫn nước đi xa để cấp nước sinh hoạt. Quy mô công trình vừa và nhỏ, phù hợp với quy mô hộ gia đình ở miền núi, chi phí thấp (dưới 1 triệu đồng cho 1 trạm), người dân có thể tự đầu tư, xây dựng, quản lý vận hành, góp phần xã hội hoá công tác thủy lợi .

Hiện nay, Viện KHTL đã nghiên cứu chế tạo được 15 loại bơm thuỷ luân, hợp tác nghiên cứu 4 loại bơm va, có thể đáp ứng rộng rãi nhu cầu phát triển thuỷ lợi miền núi. Từ năm 1998 đến 2001 Viện đã đưa kết quả nghiên cứu này vào sản xuất, góp phần xây mới và cải tạo trên 50 trạm bơm, trong đó có thể kể đến một số công trình tiêu biểu như Trạm bơm thuỷ luân Tà Xa


(Sơn La), Hệ thống thuỷ lợi Văn Quán (Lạng Sơn) và một số điểm trình diễn ở Tuyên Quang, được địa phương đánh giá cao.

Đối với vùng sâu, vùng xa điện lưới quốc gia khó vươn tới được, vì vậy việc tận dụng nguồn thủy năng sẵn có làm thuỷ điện nhỏ là một hướng quan trọng để nâng cao đời sống dân cư ở các bản làng. Thiết bị thuỷ điện nhỏ trước đây phần lớn được nhập khẩu từ nước ngoài, một số thiết bị sản xuất trong nước có chất lượng chưa ổn định nên làm mất lòng tin của các cấp quản lý và người sử dụng. Trong 10 năm gần đây, Viện KHTL đã tập trung nghiên cứu, áp dụng các thành tựu mới về thuỷ điện nhỏ của thế giới và bước đầu đã chế tạo được những thiết bị chính cho thuỷ điện nhỏ với quy mô công suất 5- 200 kW, phục vụ cho quy mô thôn, bản đến quy mô xã miền núi. Đặc biệt trong 2 năm gần đây nhờ áp dụng một số tiến bộ KH&CN nên thiết bị thuỷ điện do Viện nghiên cứu đã đạt trình độ của khu vực. Riêng mảng thiết bị thuỷ điện cực nhỏ, do thiết bị của Trung Quốc giá quá thấp nên sản phẩm của ta chưa cạnh tranh được. Được sự hỗ trợ của Bộ nông nghiệp và phát triển nông thôn, Bộ khoa học, công nghệ và môi trường, Viện đang tập trung nghiên cứu loại thiết bị này nhằm sớm đưa ra các thiết bị chất lượng cao, giá thành thấp, phục vụ cho phát triển miền núi.

Ngoài 2 nhóm công nghệ phục vụ cho thuỷ lợi và thuỷ điện nhỏ nêu trên, Viện đang đẩy mạnh nghiên cứu và chuyển giao các giải pháp tưới tiên tiến, tưới tiết kiệm cho cây trồng, đặc biệt là cây ăn quả; sử dụng vật liệu mới (vải địa kỹ thuật) để xây dựng bể chứa nước cỡ lớn phục vụ cấp nước sinh hoạt cho vùng cao núi đá; sử dụng vật liệu mới kết hợp vật liệu địa phương để xây dựng hồ chứa nước với chi phí thấp; một số loại bơm phù hợp với địa hình miền núi...


Để phát triển thuỷ lợi ở các tỉnh miền núi đặc biệt khó khăn, ngoài các giải pháp về công nghệ, chúng tôi cho rằng còn một số vấn đề khác mà các cơ quan hữu quan và Nhà nước cần quan tâm giải quyết:

Đẩy mạnh phổ biến những tiến bộ KH & CN bằng cách xây dựng các mô hình trình diễn, tổ chức các lớp tập huấn và mạng lưới cán bộ chuyển giao kỹ thuật (như mô hình khuyến nông).

Với các trạm quy mô hộ gia đình, Nhà nước cần hỗ trợ vật tư (xi măng, sắt thép), thiết bị. Các trạm có quy mô lớn hơn cần được hỗ trợ đầu tư như đầu tư các dự án thuỷ lợi hiện nay, nhưng cần cải tiến phương thức quản lý đầu tư.

Cần hỗ trợ các cơ quan nghiên cứu - triển khai để sớm đưa kết quả nghiên cứu vào sản xuất ở miền núi.

3.2. Giải pháp của Nhà nước

Để đối phó với tình trạng khan hiếm nước, Việt Nam cần giữ gìn, bảo vệ, bảo tồn nguồn nước, ứng xử hợp lý với tài nguyên nước, nhất là sử dụng nước tiết kiệm và đa mục đích, xây dựng cơ chế bảo đảm điều hòa, phân bổ hợp lý tài nguyên nước, bảo vệ dòng sông và môi trường.

Ngoài việc đầu tư, nâng cấp sửa chữa các công trình thuỷ lợi, việc hoàn thiện một số giải pháp về cơ chế chính sách, tổ chức, quản lý công trình, sử dụng nước như sau:

1. Hoàn thiện các văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến quản lý khai thác công trình thuỷ lợi theo hướng các công trình phải có chủ “quản lý” thực sự, quản lý kém người chủ phải chịu trách nhiệm về pháp luật và kinh tế. Thực hiện giao đặt hàng với những hệ thống công trình lớn, kết hợp với đấu thầu “quản lý” có điều kiện (về kỹ thuật và tài chính) từng phần việc, từng hạng mục công trình hoặc toàn bộ hệ thống công trình vừa và nhỏ, tiến tới tư nhân hoá, đa dạng hoá công tác quản lý.


2. Xây dựng các mô hình nghiên cứu, ứng dụng công nghệ thiết bị tưới tiết kiệm nước phù hợp với từng loại cây trồng, từng vùng khí hậu và từng loại đất:

Tưới nhỏ giọt: Là hình thức đưa nước trực tiếp trên mặt đất đến vùng gốc cây trồng một cách liên tục dưới dạng từng giọt nhờ các thiết bị đặc trưng là các vòi tạo giọt. Áp dụng cho vùng đất có địa hình phức tạp, khan hiếm nước, gió thổi mạnh, tưới cho các cây trồng có giá trị kinh tế cao, đòi hỏi cấp nước thường xuyên ở mức nhỏ.

Tưới phun mưa: Là hình thức tưới nước cho cây trồng dưới dạng hạt mưa. Áp dụng cho vùng đất có độ thấm ít, cho các loại cây trồng mềm yếu có giá trị kinh tế cao.

Tưới ngầm: Là hình thức đưa nước trực tiếp vào bộ rễ cây trồng. Áp dụng cho các vùng đất có khả năng mao dẫn tốt, đất thịt, thịt pha cát, kết cấu đất vào loại trung bình, có khí hậu khô hạn, thường xuyên có gió lớn

3. Tuyên truyền, phổ biến kỹ thuật thuỷ lợi, nông nghiệp đến tận bà con nông dân, đặc biệt là kỹ thuật tưới tiêu phù hợp với yêu cầu nước theo từng thời đoạn sinh trưởng của cây trồng, đặc biết đối với tưới lúa, để người nông dân hiểu và biết cách sử dụng nước tiết kiệm, hiệu quả.

Nâng cao hiệu quả sử dụng nước

Một là, đẩy mạnh xã hội hoá, phát triển mạnh mẽ thị trường nước sạch và vệ sinh nông thôn. Xã hội hoá lĩnh vực cấp nước sạch &VSMTNT, huy động sự tham gia rộng rãi của toàn xã hội, các thành phần kinh tế nhất là khu vực nhân dân đầu tư phát triển cấp nước sạch &VSMTNT. Nhà nước khuyến khích sự tham gia của các thành phần kinh tế thông qua các cơ chế chính sách đảm bảo nguyên tắc các thành phần kinh tế được coi trọng và đối xử bình đẳng.

Hai là, công tác thông tin- giáo dục- truyền thông phải được tăng cường và tiến hành thường xuyên, liên tục bằng nhiều hình thức khác nhau, như:


truyền thông trực tiếp, truyền thông đại chúng, tiếp thị xã hội nhằm nâng cao nhận thức của người dân và các cấp chính quyền, khuyến khích người dân đầu tư, tham gia bảo vệ và sử dụng nước sạch và nhà vệ sinh.

Ba là, đổi mới công tác quy hoạch, kế hoạch, xây dựng, rà soát, đánh giá, bổ sung, cập nhật quy hoạch tổng thể và quy hoạch chi tiết về cấp nước và VSMTNT làm cơ sở xây dựng kế họach phát triển 5 năm và hàng năm. Đổi mới công tác xây dựng kế hoạch theo phương pháp kế hoạch hoá. Việc xây dựng kế hoạch của chương trình nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn phải căn cứ vào nhu cầu của người dân và được tiến hành theo lịch trình 5 năm và hàng năm phải xuất phát từ cơ sở để đảm bảo tính khả thi cao. Tăng cường việc phân cấp quản lý để đảm bảo các tỉnh chủ động trong vịêc lập kế hoạch, triển khai và quản lý các công trình cấp nước sạch &VSMTNT, đồng thời có cơ chế kiểm tra, giám sát để đảm bảo thực hịên có hiệu quả.

Bốn là, chủ trọng phát triển khoa học công nghệ, nghiên cứu và phát triển theo hướng đa dạng hoá các loại hình công nghệ khai thác, sử dụng nguồn nước hợp lý và nâng cao chất lựơng nứơc phù hợp với điều kịên tự nhiên- kinh tế- xã hội của từng vùng, đảm bảo nguyên tắc bền vững. Ưu tiên tìm kiếm và tận dụng các nguồn nước ổn định với các vùng đặc biệt khó khăn ( vùng thường xuyên hạn hán, lũ lụt, vùng núi cao, hải đảo…); cấp nước tập trung cho nhũng vùng dân cư đông và tập trung; nâng cấp, mở rộng các công trình cấp nước hịên có.

Năm là, quản lý chặt chẽ đầu tư xây dựng, khai thác và bảo vệ công trình cấp nước. Việc đầu tư xây dựng phải tuân thủ quy họach, kế hoạch, dự án được cấp có thẩm quyền phê duyệt và các quy định hiện hành về quản lý đầu tư xây dựng; đảm bảo công trình được đầu tư đúng mục đích, đúng đối tượng, đúng giá trị và bền vững. Vịêc xác định dự án, công trình xuất phát từ nhu cầu của người dân, đảm bảo nguyên tắc dân chủ, công khai, người dân

Xem tất cả 115 trang.

Ngày đăng: 16/06/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí