8
2.1.2.3. Các thành phần của khung sinh kế bền vững
a. Hoàn cảnh dễ bị tổn thương
Hoàn cảnh dễ bị tổn thương là môi trường sống bên ngoài của con người. Sinh kế và tài sản sẵn có của con người bị ảnh hưởng cơ bản bởi những xu hướng chủ yếu, cũng như bởi những cú sốc và tính thời vụ. Chính những điều này khiến sinh kế và tài sản trở nên bị giới hạn và không kiểm soát được.
Một số ví dụ về các nhân tố ảnh hưởng đến tài sản và sinh kế của con người:
- Xu hướng: xu hướng dân số, xu hướng tài nguyên kể cả xung đột, xu hướng kinh tế quốc gia, quốc tế, những xu hướng thể chế (bao gồm chính sách, những xu hướng kỹ thuật...).
- Cú sốc: cú sốc về sức khoẻ con người, thiên tai, chiến tranh, dịch bệnh cây trồng vật nuôi...
- Tính thời vụ: biến động giá cả, sản xuất, sức khoẻ, những cơ hội làm việc.
Những nhân tố cấu thành hoàn cảnh dễ bị tổn thương quan trọng vì chúng có tác động trực tiếp lên tình trạng tài sản và những lựa chọn của con người mà với chúng sẽ mở ra cơ hội để họ theo đuổi những kết quả sinh kế có lợi.
Có thể bạn quan tâm!
- Ảnh hưởng của thu hồi đất xây dựng khu du lịch sinh thái đến sinh kế của các hộ nông - ngư nghiệp ven biển: Nghiên cứu trường hợp tại xã Hải Ninh, huyện Quảng Ninh, tỉnh Quảng Bình - 1
- Ảnh hưởng của thu hồi đất xây dựng khu du lịch sinh thái đến sinh kế của các hộ nông - ngư nghiệp ven biển: Nghiên cứu trường hợp tại xã Hải Ninh, huyện Quảng Ninh, tỉnh Quảng Bình - 2
- Kinh Nghiệm Về Vấn Đề Sinh Kế Và Nâng Cao Thu Nhập Cho Nông Dân Trong Phát Triển Các Khu Du Lịch Ở Một Số Nước Trên Thế Giới
- Một Số Thông Tin Cơ Bản Về Nhóm Hộ Điều Tra Ở Xã Hải Ninh
- Đánh Giá Sự Thay Đổi Cơ Sở Hạ Tầng Của Các Hộ Điều Tra (%)
Xem toàn bộ 80 trang tài liệu này.
b. Những tài sản sinh kế
Tiếp cận sinh kế cần tập trung trước hết và đầu tiên với con người. Nó cố gắng đạt được sự hiểu biết chính xác và thực tế về sức mạnh của con người (tài sản hoặc tài sản vốn) và cách họ cố gắng biến đổi chúng thành kết quả sinh kế hữu ích.
Sơ đồ 2.2. Tài sản sinh kế của người dân
(Nguồn: http://www.livelihoods.org/info/guidance_sheets_rtfs/Sect2.rtf)
7
Đây là khung giúp cho người sử dụng hiểu được các loại hình sinh kế hiện hữu và dùng nó làm cơ sở để lập kế hoạch cho các hoạt động phát triển và các hoạt động khác. Điều này kéo theo việc phân tích và sử dụng nhiều loại công cụ hiện có như phân tích xã hội và phân tích các bên liên quan, các phương pháp đánh giá nhanh và đánh giá kinh tế về:
- Bối cảnh sống của người dân, trong đó bao gồm những ảnh hưởng của các xu hướng bên ngoài với họ (xu hướng về kinh tế, xu hướng phát triển dân số).
- Khả năng tiếp cận của người dân đối với các loại tài sản sinh kế và khả năng sử dụng chúng vào sản xuất.
- Những thể chế, những chính sách và tổ chức định hình cho các loại hình tài sản sinh kế của người dân.
- Các chiến lược mà người dân áp dụng để theo đuổi mục đích của mình.
Khung sinh kế giúp ta sắp xếp những nhân tố gây cản trở hoặc tăng cường các cơ hội sinh kế, đồng thời cho ta thấy cách thức chúng liên quan với nhau như thế nào. Nó không phải là mô hình chính xác trong thực tế mà nó chỉ đưa ra một cách tư duy về sinh kế, nhìn nhận nó trên góc độ phức hợp và sâu rộng nhưng vẫn trong khuôn khổ có thể quản lý được. Khung sinh kế luôn được đặt trong trạng thái động, nó không có điểm đầu, điểm cuối. Giá trị của một khung sinh kế giúp cho người sử dụng nhìn nhận một cách bao quát và có hệ thống các tác nhân gây ra nghèo khổ và mối quan hệ giữa chúng. Có thể đó là những cú sốc và các xu hướng bất lợi, các chính sách và thể chế hoạt động kém hiệu quả hoặc việc thiếu cơ bản các tài sản sinh kế.
Mục đích sử dụng khung sinh kế là để tìm hiểu những cách thức mà con người đã kết hợp và sử dụng các nguồn lực, khả năng nhằm kiếm sống cũng như để đạt được các mục tiêu và ước nguyện của họ. Mà những mục tiêu và ước nguyện mà con người đạt được nhờ sử dụng và kết hợp các nguồn lực khác nhau có thể gọi là kết quả sinh kế. Đây là những thứ mà con người muốn đạt được trong cuộc sống kể cả trước mắt cũng như lâu dài.
Nghiên cứu kết quả sinh kế sẽ cho chúng ta hiểu được động lực nào dẫn tới các hoạt động mà họ đang thực hiện và những ưu tiên của họ là gì. Đồng thời cũng cho thấy phản ứng của người dân trước những cơ hội và nguy cơ mới. Kết quả sinh kế thể hiện trên chỉ số như cuộc sống hưng thịnh hơn, đời sống được nâng cao, khả năng tổn thương giảm, an ninh lương thực được củng cố và sử dụng bền vững các nguồn tài nguyên thiên nhiên. Do đó cần phải kết hợp và sử dụng khác nhau như đất đai, vốn,
khoa học công nghệ.
9
Khung sinh kế xác định 5 loại tài sản trung tâm mà dựa vào đó tạo ra những sinh kế: Nguồn vốn con người, nguồn vốn xã hội, nguồn vốn tự nhiên, nguồn vốn vật thể, nguồn vốn tài chính.
- Nguồn vốn nhân lực
Nguồn nhân lực bao gồm kỹ năng, kiến thức, khả năng lao động và sức khoẻ con người. Các yếu tố đó giúp cho con người có thể theo đuổi những chiến lược tìm kiếm thu nhập khác nhau và đạt những mục tiêu kế sinh nhai của họ. Ở mức độ gia đình nguồn nhân lực được xem là số lượng và chất lượng nhân lực có sẵn. Những thay đổi này phụ thuộc vào quy mô hộ, trình độ kỹ năng, khả năng lãnh đạo và bảo vệ sức khoẻ.
Nguồn nhân lực là một yếu tố cấu thành nên kế sinh nhai. Nó được xem là nền tảng hay phương tiện để đạt được mục tiêu thu nhập.
- Nguồn vốn xã hội
Vốn xã hội là những nguồn lực xã hội dựa trên những gì mà con người vẽ ra để theo đuổi mục tiêu kế sinh nhai của họ. Chúng bao gồm:
Các tương tác và mạng lưới, cả chiều dọc (người bảo lãnh/khách hàng quen) và chiều ngang (giữa các cá nhân có cùng mối quan tâm) có tác động làm tăng cả uy tín và khả năng làm việc của con người, mở rộng tiếp cận với các thể chế, như các thể chế chính trị và cộng đồng.
Là thành viên trong một nhóm ảnh hưởng hoặc kế thừa triệt để các quyết định chung, các quy tắc được chấp nhận, các tiêu chuẩn và mệnh lệnh. Uy tín của các mối quan hệ, sự nhân nhượng và sự trao đổi khuyến khích kết hợp, cắt giảm các chi phí giao dịch và có thể tạo ra một mạng lưới không chính thức xung quanh vấn đề nghèo đói.
- Nguồn vốn tự nhiên
Vốn tự nhiên là những yếu tố được sử dụng trong các nguồn lực tự nhiên. Nó cung cấp và phục vụ rất hữu ích cho phương kế kiếm sống của con người. Có rất nhiều nguồn lực hình thành nên vốn tự nhiên. Từ các hàng hoá công vô hình như không khí, tính đa dạng sinh học đến các tài sản có thể phân chia được sử dụng trực tiếp trong sản xuất như: đất đai, nguồn nước, cây trồng, vật nuôi, mùa màng...
- Nguồn vốn vật thể
Vốn vật thể gồm các cơ sở hạ tầng xã hội, tài sản hộ gia đình hỗ trợ cho sinh kế như: giao thông, hệ thống cấp thoát nước, hệ thống ngăn, tưới tiêu, cung cấp năng lượng, nhà ở, các phương tiện sản xuất, đi lại, thông tin.
Vốn vật thể (in particular infrastructure) có thể là đắt đỏ. Nó không chỉ yêu cầu
nguồn vốn đầu tư ban đầu mà còn cung cấp tài chính cho những gì đang diễn ra và nguồn lực con người đáp ứng những hoạt động và duy trì chi phí cho dịch vụ.Vì vậy,
10
việc nhấn mạnh cung cấp một dịch vụ không chỉ đáp ứng những nhu cầu trung gian của người sử dụng mà còn phải đủ trong thời gian dài. Nó không chỉ quan trọng để cung cấp sự khuyến khích cùng một lúc đến phát triển kĩ năng, năng lực để đảm bảo việc quản lý có hiệu quả của dân chúng địa phương.
Cơ sở hạ tầng là một trong những loại tài sản hỗ trợ trực tiếp người dân, đặc biệt là người nghèo. Tài sản này có thể giúp người nghèo thoát nghèo một cách nhanh chóng, nếu được đầu tư đúng, và phù hợp với sinh kế hộ nghèo. Như hệ thống đường xá, vận tải, y tế.
- Nguồn vốn tài chính
Vốn tài chính thể hiện nguồn lực tài chính được con người sử dụng để hướng tới mục tiêu sinh kế của họ. Định nghĩa được sử dụng ở đây không mang tính chất kinh tế mà nó bao gồm những dòng tích trữ và có thể góp phần vào việc tiêu dùng sản phẩm. Tuy nhiên, nó phải được thực hiện để đạt được một nền tảng sinh kế quan trọng, đó là sự giá trị của tiền mặt hoặc tính thanh khoản, người ta có thể làm theo những cách sinh kế khác.
Có hai nguồn vốn tài chính chủ yếu.
+ Vốn sẵn có: Tiết kiệm là loại vốn tài chính được ưa thích vì nó không bị ràng buộc về tính pháp lý. Chúng có thể có nhiều hình thức: tiền mặt, tín dụng ngân hàng, hoặc tài sản thanh khoản khác như vật nuôi, nữ trang.... Nguồn lực tài chính có thể tồn tại dưới dạng các tổ chức cung cấp tín dụng.
+ Dòng tiền đều: Ngoại trừ thu nhập hầu hết loại này là tiền trợ cấp, hoặc sự chuyển giao. Để có sự tạo lập rõ ràng vốn tài chính từ những dòng tiền này phải xác thực (trong khi sự đáng tin cậy hoàn toàn không bao giờ được đảm bảo có sự khác nhau giữa việc trả nợ một lần với sự chuyển giao thường xuyên vào kế hoạch đầu tư).
Đặc điểm của mô hình 5 loại tài sản
- Những ngũ giác có hình dạng khác nhau có thể được vẽ cho những cộng đồng khác nhau hoặc cho những nhóm xã hội khác nhau trong cộng đồng đó.
- Một tài sản riêng lẻ có thể tạo ra nhiều lợi ích. Nếu một người có thể tiếp cận chắc chắn với đất đai (tài sản tự nhiên) họ cũng có thể có được nguồn tài chính vì họ có thể sử dụng đất đai không chỉ cho những hoạt động sản xuất trực tiếp mà còn cho thuê.
- Phẩm chất của tài sản thay đổi thường xuyên vì vậy ngũ giác cũng thay đổi liên tục theo thời gian.
- Hình dạng của ngũ giác diển tả khả năng tiếp cận của người dân với các loại tài
sản. Tâm điểm là nơi không tiếp cận được với loại tài sản nào. Các điểm nằm trên chu vi là tiếp cận tối đa với các loại tài sản. Như vậy những ngũ giác có hình dạng khác
11
nhau có thể được vẽ cho những cộng đồng khác nhau hoặc cho những nhóm xã hội khác nhau trong cộng đồng đó. Điều quan trọng là một tài sản riêng lẻ có thể tạo ra nhiều lợi ích. Sơ đồ hình ngũ giác rất hữu ích cho việc tìm ra điểm nào thích hợp, những tài sản nào sẽ phục vụ cho nhu cầu của nhóm xã hội khác nhau và cân bằng giữa những tài sản đó như thế nào.
2.1.2.4. Mối quan hệ giữa các loại tài sản trong khung
a. Quan hệ giữa các tài sản
Những tài sản sinh kế nối kết với nhau theo vô số cách để tạo ra kết quả sinh kế có lợi. Hai loại quan hệ quan trọng là:
- Sự tuần tự: Việc sở hữu một loại tài sản giúp người dân từ đó tạo thêm các loại tài sản khác. Ví dụ người dân dùng tiền (nguồn vốn tài chính) để mua sắm vật dụng sản xuất và tiêu dùng (nguồn vốn vật thể).
- Sự thay thế: Một loại tài sản có thể thay thế cho những loại tài sản khác không? Sự gia tăng nguồn vốn con người có đủ đền bù sự thiếu hụt nguồn vốn tài chính không? Nếu có, điều này có thể dựa vào mở rộng lựa chọn cho cung cấp.
b. Mối quan hệ trong khung
- Tài sản và hoản cảnh dễ bị tổn thương: Tài sản có thể vừa bị phá huỷ vừa được tạo ra thông qua các biến động của hoàn cảnh.
- Tài sản và sự tái cấu trúc và thay đổi quy trình thể chế: Thể chế, chính sách và sự chuyển dịch cơ cấu, quy trình sản xuất có ảnh hưởng sâu sắc đến khả năng tiếp cận tài sản.
- Tạo ra tài sản: Chính sách đầu tư xây dựng CSHT cơ bản (nguồn vốn hữu hình) hoặc phát minh kỹ thuật (nguồn vốn con người) hoặc sự tồn tại của những thể chế địa phương làm mạnh lên nguồn vốn xã hội.
- Xác định cách tiếp cận tài sản: Quyền sở hữu, những thể chế điều chỉnh cách tiếp cận với những nguồn tài nguyên phổ biến.
- Ảnh hưởng tỉ lệ tích luỹ tài sản: Chính sách thuế ảnh hưởng đến doanh thu của những chiến lược sinh kế.
Tuy nhiên, đây không phải là mối quan hệ đơn giản, những cá nhân và những nhóm cũng ảnh hưởng lên sự tái cấu trúc và thay đổi quy trình thể chế. Nói chung, tài sản càng được cung ứng cho người dân thì họ sẽ sử dụng càng nhiều. Vì vậy một cách để đạt được sự trao quyền có thể là hỗ trợ cho người dân xây dựng những tài
sản của họ.
12
Tài sản và những chiến lược sinh kế: Những ai có nhiều tài sản có khuynh hướng có nhiều lựa chọn lớn hơn và khả năng chuyển đổi giữa nhiều chiến lược để đảm bảo sinh kế của họ.
Tài sản và những kết quả sinh kế: Khả năng người dân thoát nghèo phụ thuộc chủ yếu vào sự tiếp cận của họ đối với những tài sản. Những tài sản khác nhau cần để đạt được những kết quả sinh kế khác nhau.
2.1.3. Thay đổi sinh kế của hộ nông dân sau khi thu hồi đất nông nghiệp
Sau khi thu hồi đất nông nghiệp, sự thay đổi sinh kể của hộ nông dân biểu hiện ngày càng rõ rệt. Nhiều mô hình ngày càng đa dạng thay vì trước đây sinh kế nông nghiệp là chủ yếu còn hiện nay hộ có thêm những nguồn sinh kế mới như : cho thuê nhà, làm công nhân, buôn bán và nhiều dịch vụ khác nữa. Các mô hình sinh kế khác nhau như : trồng trọt - chăn nuôi - làm thuê, trồng trọt - công nhân, trồng trọt - bán hàng tạp hóa, buôn bán - làm thuê…
Sự thay đổi sinh kế là sự thay đổi về các mặt bao gồm tài sản (tự nhiên, vật lý, con người, tài chính, vốn xã hội) theo những chiều hướng khác nhau. Những hộ nông dân có các chiến lược sinh kế tốt sẽ mang lại những thay đổi theo hướng tích cực, ngược lại thì sẽ có những thay đổi sinh kế theo chiều hướng tích cực
Trong nông nghiệp đất đai đóng vai trò vô cùng quan trọng “bản thân đất đai phát sinh như một tư liệu sản xuất”. Đối với sinh vật, đất là nguồn cung cấp chất dinh dưỡng cho cây trồng. Năng suất cây trồng vật nuôi phụ thuộc vào chất lượng đất đai. Quá trình lao động và sản xuất ra sản phẩm có quan hệ mật thiết với những đặc tính của đất, chất lượng đất quyết định. Vì vậy, đất đai có một vị trí quan trọng trong các ngành sản xuất đặc biệt là sản xuất nông nghiệp. Đối với những hộ nông dân thì sau khi thu hồi đất nông nghiệp, lâm nghiệp sẽ gây ảnh hưởng to lớn tới đời sỗng, sinh kế của người dân. Việc thu hồi đất nông nghiệp, lâm nghiệp không chỉ làm mất đi tài sản sinh kế đặc biệt quan trọng của hộ nông dân như đất đai, kỹ năng nông nghiệp, nguồn thực phẩm và thu nhập của các hộ gia đình, môi trường và sức khỏe con người. Để thích ứng điều với sự thay đổi này các hộ nông dân đã tận dụng các nguồn lực như con người, sức lao động, tiền đền bù, có những chiến lược sinh kế khác nhau để kiếm sống và để xây dựng một sinh kế mới.
Chiến lược sinh kế là cách thức sinh nhai để người dân đạt được mục tiêu của họ. Các hộ gia đình, các cộng đồng thường theo đuổi chiến lược đa sinh kế (nhiều cách sinh sống). Các chiến lược sinh kế đó có thể phụ thuộc hoặc không phụ thuộc vào điều kiện môi trường, chúng phụ thuộc ít nhiều vào thi trường, việc làm trong nền kinh tế và chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước. Người dân có thể sử dụng những gì mà họ có
thể tiếp cận được để tồn tại hoặc cải thiện tình hình hiện tại.
13
Chiến lược sinh kế của người dân bao gồm những quyết định và lựa chọn của họ về sự đầu tư và sự kết hợp các nguồn lực sinh kế nào với nhau. Quy mô của các hoạt động tạo thu nhập mà họ đang theo đuổi. Quản lý như thế nào để bảo tồn được các nguồn lực sinh kế và thu nhập của họ? Cách người dân thu thập và phát triển các kiến thức, kĩ năng cần thiết để kiếm sống ? Cách sử dụng thời gian và công sức? Cách họ đối phó với rủi ro....
Điều gì có thể tạo nên vốn con người cho người dân vùng biển ở xã Hải Ninh?
Việc hỗ trợ nguồn nhân lực có thể thực hiện cả trực tiếp lẫn gián tiếp. Trong cả hai cách thực hiện đó kết quả thực sự mang lại chỉ khi con người, chính bản thân họ sẵn sàng đầu tư vào vốn nhân lực của họ bằng cách tham gia vào các khoá đào tạo hay trường học. Tiếp cận với các dịch vụ phòng ngừa dịch bệnh. Trong trường hợp con người bị ngăn cản bởi những việc làm trái với lẽ thường (những tiêu chuẩn xã hội hay chính sách cứng nhắc ngăn cấm phụ nữ tới trường) thì việc hỗ trợ gián tiếp vào việc phát triển vốn con người có ý nghĩa đặc biệt quan trọng.
Trong nhiều trường hợp ta nên kết hợp cả hai hình thức hỗ trợ. Cơ chế phù hợp nhất cho việc kết hợp hỗ trợ là thực hiện các chương trình trọng điểm. Các chương trình trọng điểm có thể hướng vào việc phát triển nguồn nhân lực, đế xuất những thông tin thông qua việc phân tích các phương thức kiếm sống để chắc chắn rằng các nỗ lực tập trung vào nơi cần thiết nhất.
Cải thiện phương thức tiếp cận với giáo dục chất lượng cao, thông tin, công nghệ và đào tạo nâng cao dinh dưỡng và sức khoẻ sẽ góp phần làm phát triển nguồn vốn con người.
Làm gì để tạo ra nguồn vốn xã hội cho người dân nông thôn?
Hầu hết những nỗ lực xây dựng vốn xã hội đều tập trung vào các thể chế địa phương, ngay cả hoạt động trực tiếp (thông qua việc tạo ra các khả năng, huấn luyện đào tạo hay phân phối các nguồn lực) hoặc gián tiếp thông qua việc tạo ra một môi trường dân chủ thông thoáng.
Trong khi việc trao quyền cho các nhóm có thể xem như một mục tiêu chính, vốn xã hội có thể được xem là sản phẩm phụ trong các hoạt động khác (tham gia nghiên cứu sự hình thành nên các nhóm để phát triển và kiểm tra các công nghệ có khả năng nâng cao đời sống của họ). Thông thường, những biến động gia tăng nguồn vốn xã hội được theo đuổi cần phải có sự hỗ trợ từ các lĩnh vực khác. Do đó cần gắn chặt trách nhiệm của các tổ chức tiết kiệm và tín dụng vào nguồn vốn xã hội. Cũng như việc kết hợp quản lý các tai hoạ cần phải dựa vào việc kết nối các hành động để hạn chế chúng.
Điều gì có thể làm nên nguồn vốn tự nhiên cho người dân nông thôn?
Mục tiêu sinh kế hướng đến một tầm rộng lớn hơn, chú trọng vào con người và hiểu tầm quan trọng của các quy trình và cấu trúc (những cách thức phân phối đất, các
14
quy tắc rút ra từ việc đánh bắt cá) trong quá trình xác định cách mà các nguồn vốn tự nhiên được tạo ra và sử dụng.
Những tiến trình và cấu trúc điều chỉnh các phương cách tiếp cận đối với nguồn lực tự nhiên và có thể khuyến khích, hoặc ép buộc khi cần thiết để cải thiện việc quản lý các nguồn lực. Nếu các thị trường hoàn thiện hơn thì giá trị các nguồn lực cũng được cao hơn, việc xúc tiến quản lý tốt hơn (trong một vài trường hợp, thị trường phát triển có thể dẫn đến sự sụt giảm doanh số bởi vì nghèo đói có thể làm tăng sự cơ cực).
Việc hỗ trợ gián tiếp đối với vốn tự nhiên thông qua sự chuyển đổi các tiến trình và cấu trúc thì có ý nghĩa rất quan trọng. Sự hỗ trợ trực tiếp tập trung vào các nguồn lực mà chính các nguồn lực đó có thể chống lại khả năng sử dụng các nguồn lực đó của con người vẫn có sự tái tạo cho nhu cầu sử dụng trong tương lai. Một trong các thành phần chính của mục tiêu sinh kế bền vững là tin và theo đuổi mục tiêu ổn định nhiều loại nguồn lực khác nhau. Sao cho không ảnh hưởng đến sự ổn định của môi trường (ổn định nguồn vốn tự nhiên và các dịch vụ của nó, như giảm khí cacbon và quản lý sự xói mòn).
Chúng ta phải làm gì để tạo ra nguồn vốn vật thể cho người dân nông thôn?
Trước đây DFID đã khuyến khích việc dự trữ trực tiếp hàng hoá sản xuất cho người nghèo. Có thể là vấn đề của một số nguyên nhân:
• Hoạt động nhỏ một nhà cung ứng trực tiếp hàng hoá sản xuất dẫn đến sự phụ thuộc và phá vỡ thị trường tư nhân.
• Dự trữ trực tiếp có thể làm giảm sự tham gia cải thiện cơ cấu và quy trình thể chế để đảm bảo những gì đạt được là bền vững và hàng hoá sản xuất được sử dụng là tốt nhất.
Vì vậy mục tiêu sinh kế tập trung vào việc giúp đỡ tiếp cận thích hợp, những thứ giúp ích cho sinh kế của người nghèo. Tiến tới việc tham gia là cần thiết để thiết lập sự ưu tiên và cần thiết cho những người sử dụng.
Vốn vật thể (in particular infrastructure) có thể là đắt đỏ. Nó không chỉ yêu cầu nguồn vốn đầu tư ban đầu mà còn cung cấp tài chính cho những gì đang diễn ra và nguồn lực con người đáp ứng những hoạt động và duy trì chi phí cho dịch vụ.Vì vậy, việc nhấn mạnh cung cấp một dịch vụ không chỉ đáp ứng những nhu cầu trung gian của người sử dụng mà còn phải đủ trong thời gian dài. Nó không chỉ quan trọng để cung cấp sự khuyến khích cùng một lúc đến phát triển kĩ năng, năng lực để đảm bảo việc quản lý có hiệu quả của dân chúng địa phương.
Cơ sở hạ tầng là một trong những loại tài sản hỗ trợ trực tiếp người dân, đặc biệt là người nghèo. Tài sản này có thể giúp người nghèo thoát nghèo một cách nhanh
15
chóng, nếu được đầu tư đúng, và phù hợp với sinh kế hộ nghèo. Như hệ thống đường xá, vận tải, y tế.
2.2. Vấn đề sinh kế hộ nông dân và thay đổi sinh kế hộ nông dân ở một số nước trên thế giới và Việt Nam
2.2.1. Chủ trương, biện pháp của Đảng và Nhà nước ta trong vấn đề giải quyết việc làm và sinh kế cho hộ nông dân sau khi bị thu hồi đất nông nghiệp, lâm nghiệp phục vụ quá trình CNH – HĐH ở Việt Nam
Việt Nam là một nước nông nghiệp với trên 70% dân số sống ở nông thôn và làm nông nghiệp. Theo thống kê của hội Nông dân Việt Nam, mỗi năm nước ta có khoảng 200.000 ha đất nông nghiệp, lâm nghiệp bị chuyển đổi mục đích sử dụng, tương ứng với mỗi hộ có khoảng 1,5 lao động mất việc làm. Điều này đòi hỏi Đảng và Nhà nước phải có biện pháp giải quyết việc làm cho người dân bị thu hồi đất, làm sao để đảm bảo sinh kế bền vững cho họ. Thủ tướng Chính phủ đã có Chỉ thị 11/2006/CT
– TTG yêu cầu UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung Ương có định hướng quy hoạch, kế hoạch về chuyển đổi mục đích sử dụng, chủ động xây dựng kế hoạch hỗ trợ dạy nghề, tạo việc làm và vay vốn giải quyết việc làm cho người lao động ngay trong quá trình xây dựng quy hoạch và kế hoạch thu hồi đất nông nghiệp (http://vietnamnet.vn/chinhtri/2014/03/772111/).
Thứ nhất là việc quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất sao cho có hiệu quả, nâng cao độ phì của đất, bồi dưỡng đất, tăng hiệu quả kinh tế của đất. Vì đất đai là tư liệu sản xuất đặc biệt, không sinh thêm mà lại ngày càng thu hẹp lại cho nên phải có kế hoạch sử dụng đất hợp lý, tiết kiệm, đất nào sử dụng với mục đích ấy. Hạn chế tối đa việc sử dụng đất đất nông nhiệp vào xây dựng KDL FLC, khu đô thị ven KDL. Nên sử dụng đất lâm nhiệp nghèo dinh dưỡng, đất bãi để xây dựng KDL FLC. Trước khi quy hoạch sử dụng đất để xây dựng KDL FLC thì cần thông báo công khai cho nhân dân biết. Cần có sự phối hợp giữa các cơ quan, đơn vị, chính quyền các cấp để tuyên truyền chủ trương, chính sách đất đai của Đảng và Nhà nước. Thu hồi đất, giải phóng mặt bằng và đền bù phải theo quy định. Thứ hai là việc giải quyết việc làm cho nông dân đang là vấn đề bức xúc. Trong những năm qua Nhà nước đã triển khai nhiều chính sách hỗ trợ cho người dân những vùng bị thu hồi đất như chính sách định cư tại chỗ, hỗ trợ đào tạo nghề, chuyển đổi nghề... Các cấp chính quyền nên tạo điều kiện cho những hộ nông dân bị mất đất sản xuất có việc làm mới ngay trên địa bàn: cho họ vào làm tại các nhà máy, xí nghiệp ngay trên mảnh đất của họ trước đây. Thực hiện phương châm “Ly nông bất ly hương”. Phải có biện pháp bắt buộc thực hiện chính sách dạy nghề miễn phí cho người dân trong vùng bị lấy đất. Phải có lớp tập huấn, đào tạo để giúp người nông dân có kiến thức về sản xuất, kinh doanh, giúp họ tiếp cận thị
trường. Chính sách cho vay vốn với lãi suất ưu đãi cũng cần cải cách. Ngoài ra, một