Đánh Giá Ảnh Hưởng Của Công Cụ Lãi Suất Đến Hoạt Động Tín Dụng Của Các Ngân Hàng Thương Mại Cổ Phần Việt Nam


Hệ số hồi quy riêng phần B đo lường sự thay đổi (%) của biến phụ thuộc (dư nợ tín dụng) khi một biến độc lập thay đổi 1%, trong khi các biến độc lập còn lại không đổi.

Các hệ số hồi quy riêng phần của tổng thể cũng được thực hiện kiểm định giả thuyết H0: βi=0, các biến có giá trị sig. nhỏ hơn .100 thì biến đó có ý nghĩa trong mô hình, giá trị sig. lớn hơn .100 thì biến đó không có ý nghĩa trong mô hình.

Bảng trên cho thấy các biến độc lập “Lãi suất cơ bản”, “Lạm phát”, “Thanh khoản”, “Quy mô” có giá trị sig. nhỏ hơn .100 chứng minh các biến này có ý nghĩa trong mô hình.

Hệ số B của “Lãi suất cơ bản” là -25.213 có ý nghĩa tăng trưởng dư nợ tín dụng tỷ lệ nghịch với sự thay đổi của lãi suất cơ bản. Lãi suất cơ bản tăng 1% sẽ làm dư nợ tín dụng giảm trung bình 25,213% khi các biến độc lập còn lại không đổi.

Hệ số B của “Lạm phát” là 45.457 có ý nghĩa tăng trưởng dư nợ tín dụng tỷ lệ thuận với lạm phát. Lạm phát tăng 1% sẽ làm dư nợ tín dụng tăng trung bình 44,457% khi các biến độc lập còn lại không đổi.

Hệ số B của “Thanh khoản” là 1.440 có ý nghĩa tăng trưởng tín dụng tỷ lệ thuận với tính thanh khoản ngân hàng. Thanh khoản tăng 1% sẽ làm dư nợ tín dụng tăng trung bình 1,44% khi các biến độc lập còn lại không đổi.

Hệ số B của “Quy mô” là 0.440 có ý nghĩa tăng trưởng tín dụng tỷ lệ thuận với quy mô ngân hàng. Quy mô tăng 1% sẽ làm dư nợ tín dụng tăng trung bình 0,44% khi các biến độc lập còn lại không đổi.

2.2.2.3 Đánh giá ảnh hưởng của công cụ lãi suất đến hoạt động tín dụng của các ngân hàng thương mại cổ phần Việt Nam

Từ tình hình thực tiễn và kết quả chạy mô hình ở trên đều cho kết quả tồn tại sự ảnh hưởng của công cụ lãi suất lên hoạt động tín dụng - dư nợ tín dụng của các ngân hàng TMCP Việt Nam giai đoạn 2006 – 2012. Cụ thể, kết quả nghiên cứu các yếu tố cho thấy:

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 88 trang tài liệu này.


Thứ nhất, trong các yếu tố kinh tế, các yếu tố “lãi suất cơ bản” và “lạm phát” cho kết quả tác động rò ràng lên dư nợ tín dụng. Khi NHNNVN tăng hoặc giảm lãi suất cơ bản, thể hiện CSTT thắt chặt hay nới lỏng làm dư nợ tín dụng của các ngân hàng TMCP giảm hoặc tăng tương ứng với tỷ lệ khoản 25,21%.

Ảnh hưởng của công cụ lãi suất đến hoạt động tín dụng của các ngân hàng thương mại cổ phần Việt Nam - 7

Trong thời kỳ CSTT ổn định, mở rộng, tỷ lệ lạm phát và tốc độ tăng trưởng tín dụng đều tăng và ngược lại trong trường hợp CSTT thắt chặt thì tỷ lệ lạm phát và tốc độ tăng trưởng tín dụng đều chậm lại.

Thứ hai, trong các yếu tố thuộc đặc điểm của ngân hàng, yếu tố “vốn” không đóng vai trò quan trọng trong phản ứng của dư nợ tín dụng đối với công cụ lãi suất. Trong khi đó, tồn tại tác động của yếu tố “thanh khoản” và “quy mô” lên dư nợ tín dụng, tuy nhiên với mức ý nghĩa thấp. Các ngân hàng có đặc điểm thanh khoản kém, quy mô nhỏ thì khó khăn trong việc giảm thiểu tác động của công cụ lãi suất lên danh mục cho vay hơn là các ngân hàng có đặc điểm thanh khoản cao và quy mô lớn. Kết quả này giống với kết quả nhận định ở mục cơ sở lý thuyết 1.3.

2.3 Hạn chế và tồn tại từ tác động của công cụ lãi suất đến hoạt động tín dụng của các ngân hàng thương mại cổ phần Việt Nam

Với kết quả phân tích và kiểm tra bằng mô hình ở trên, có thể thấy được sự tác động của công cụ lãi suất đến hoạt động tín dụng của các ngân hàng TMCP Việt Nam giai đoạn 2006 – 2012. Tuy nhiên, có sự tồn tại những ảnh hưởng tiêu cực từ sự thay đổi công cụ lãi suất đến hoạt động tín dụng của các ngân hàng TMCP Việt Nam, đó là:

Thứ nhất, điều chỉnh giảm lãi vay là một khó khăn cho các ngân hàng TMCP. Với việc thực thi CSTT thắt chặt của NHNN từ giữa năm 2007 đế năm 2012 (trừ năm 2009) đã phát tín hiệu buộc các ngân hàng TMCP phải thắt chặt tín dụng, giảm lãi suất cho vay. Nhưng nguồn vốn huy động vẫn còn ở mức lãi suất cao, cho nên các ngân hàng TMCP không dễ dàng giảm lãi suất cho vay một cách nhanh chóng.

Thứ hai, tăng cường cho vay là điều không đơn giản đối với các ngân hàng TMCP. Nguyên nhân xuất phát từ nền kinh tế khó khăn, dù lãi suất cho vay đã giảm nhưng


vẫn còn cao hơn tỷ suất lợi nhuận mà các doanh nghiệp có thể đạt được. Vì vậy, nhu cầu vay vốn không tăng cao. Ngoài ra, do thực trạng về độ minh bạch của các doanh nghiệp Việt Nam còn thấp, nên chưa chứng minh được hiệu quả của việc sử dụng vốn và khả năng trả nợ của doanh nghiệp. Hơn nữa, tình hình hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp gặp khó khăn dẫn đến doanh nghiệp không đủ điều kiện bảo đảm tiền vay khiến khả năng cấp tín dụng bị hạn chế.

Thứ ba, nợ xấu và rủi ro tiềm ẩn tăng lên. Lãi suất vẫn còn cao, thắt chặt tín dụng, giá cả nguyên vật liệu tăng, cùng với tình hình kinh tế khó khăn là gánh nặng đè lên vai các doanh nghiệp. Trong khi nợ mới không vay được, nợ cũ chồng chất không có khả năng hoàn trả. Chính vì vậy, khả năng thu hồi vốn rất thấp, nợ quá hạn ngày càng gia tăng. Nhiều ngân hàng chỉ thu được một phần số lãi phát sinh, còn vốn gốc chỉ thu được một tỷ lệ không đáng kể. Điều này tác động không tốt đến tình hình hoạt động của các ngân hàng, đặc biệt là hoạt động tín dụng, nợ xấu và rủi ro tiềm ẩn tăng cao, làm suy yếu năng lực tài chính, ảnh hưởng đến kết quả kinh doanh của các NHTM.

Kết luận, trong thời gian nghiên cứu từ năm 2006 đến năm 2012, dựa trên phân tích tình hình thay đổi của công cụ lãi suất và hoạt động tín dụng, dựa trên dữ liệu bảng cân đối kế toán của 31 ngân hàng TMCP Việt Nam, kết quả nghiên cứu cho thấy rằng lãi suất có ảnh hưởng đến hoạt động tín dụng ngân hàng. Tuy nhiên, việc điều hành công cụ lãi suất hiện nay vẫn còn tồn tại những hạn chế, những tác động tiêu cực đến hoạt động tín dụng, gây ảnh hưởng đến kết quả kinh doanh của các ngân hàng TMCP Việt Nam.

Phần tiếp theo sau đây, tác giả xin đưa ra một số giải pháp nhằm hạn chế những ảnh hưởng tiêu cực, qua đó nâng cao tính hiệu quả của công cụ lãi suất và hoạt động tín dụng của các ngân hàng TMCP Việt Nam trong thời gian tới.


CHƯƠNG 3: GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN CÔNG CỤ LÃI SUẤT NHẰM HẠN CHẾ NHỮNG ẢNH HƯỞNG TIÊU CỰC ĐẾN HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG CỦA CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN VIỆT NAM‌

3.1 Định hướng trong điều hành công cụ lãi suất của Ngân hàng nhà nước Việt Nam‌

Năm 2012, nền kinh tế Việt Nam được đánh giá là ổn định, lạm phát được kiềm chế ở mức 6,81%, các cân đối về tiền tệ, tín dụng, tài chính được kiểm soát, thị trường ngoại hối và tỷ giá ngoại tệ ổn định, dự trữ ngoại hối tăng. Nhưng nền kinh tế vẫn còn đứng trước thách thức, nguy cơ lạm phát quay trở lại, do một số yếu tố tác động đến. Đó là: hiệu quả đầu tư, năng suất lao động còn thấp so với các nước và việc cải thiện còn chậm; áp lực của nền kinh tế phải nới lỏng chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ để góp phần xử lý hàng tồn kho, thị trường bất động sản; việc thực hiện lộ trình giá thị trường của các doanh nghiệp giữ vị thế độc quyền (xăng dầu, điện, nước); giá cả hàng hóa thế giới có thể tăng lên khi các nền kinh tế lớn nới lỏng CSTT nhằm kích thích nền kinh tế; nếu tỷ giá không ổn định và nhập siêu trở lại, sẽ làm xuất hiện “nhập khẩu lạm phát”.

Theo Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF), kinh tế thế giới năm 2013 được dự báo còn khó khăn nhưng nhiều khả năng sẽ có những chuyển biến tích cực hơn so với năm 2012. Dự báo tăng trưởng kinh tế thế giới năm 2013 đạt khoảng 3,9% (năm 2012 dự báo tăng khoảng 3,5%), trong đó các nước phát triển tăng 2%, các nước mới nổi và đang phát triển tăng 6%.

Tuy nhiên, những khó khăn thách thức còn rất lớn. Nợ công cao và thâm hụt ngân sách ở châu Âu chưa được giải quyết triệt để, tiềm ẩn rủi ro tác động xấu đến sự phát triển khu vực và thế giới, tâm lý không ổn định của các nhà đầu tư. Những diễn biến xung đột chính trị cục bộ khu vực, thiên tai, dịch bệnh là những yếu tố tiềm ẩn ảnh hưởng đến sự phát triển của kinh tế thế giới và của nước ta.

Ngoài áp lực lạm phát tăng, bất ổn kinh tế vĩ mô vẫn còn lớn, thị trường tiền tệ chưa thực sự ổn định, lãi suất cho vay tuy giảm nhưng vẫn còn cao, nợ xấu có xu hướng


gia tăng. Việc thực hiện các chính sách nhằm ổn định kinh tế vĩ mô sẽ gây những khó khăn nhất định đối với tăng trưởng kinh tế. Thị trường tiêu thụ gặp khó khăn do sức mua chưa được phục hồi mạnh; việc mở rộng xuất khẩu ở các thị trường lớn như Châu Âu,... gặp nhiều khó khăn do các nền kinh tế này tăng trưởng chậm, thậm chí có thể rơi vào suy thoái và phải cạnh tranh gay gắt với các nước xuất khẩu khác, sản xuất kinh doanh gặp nhiều khó khăn, nhất là trong tiếp cận vốn tín dụng, hàng tồn kho cao, thị trường bất động sản giảm mạnh.

Trong bối cảnh khó khăn chung và những diễn biến phức tạp khó lường của thế giới hiện nay, nhưng với điều kiện chính trị, xã hội ổn định, nước ta vẫn có thể phát huy những tiềm năng, lợi thế của một nước đi sau, đang trong quá trình công nghiệp hóa với nền nông nghiệp giàu tiềm năng sản xuất và xuất khẩu hàng nông sản; có điều kiện thuận lợi thu hút đầu tư nước ngoài và thị trường nội địa phát triển nhanh. Do vậy, theo Nghị quyết Về Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2011 – 2015 đã được Đại hội đại biểu toàn quốc của Đảng lần thứ XI thông qua, xác định: phát triển kinh tế nhanh, bền vững, gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng và cơ cấu lại nền kinh tế theo hướng nâng cao chất lượng, hiệu quả sức cạnh tranh. Trong 2-3 năm đầu Kế hoạch tập trung thực hiện mục tiêu ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm an sinh xã hội, tăng trưởng ở mức hợp lý và tiến hành khởi động mạnh mẽ cơ cấu lại nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng, 2-3 năm tiếp theo bảo đảm hoàn thành cơ bản cơ cấu lại nền kinh tế để phát triển nhanh và bền vững, hài hòa giữa mục tiêu tăng trưởng, ổn định kinh tế vĩ mô và an sinh xã hội. Cụ thể, một số chỉ tiêu kinh tế như: tổng sản phẩm trong nước (GDP) bình quân 5 năm tăng khoảng 6,5%-7%; tỷ trọng đầu tư toàn xã hội khoảng 33,5%-35% GDP; giảm dần nhập siêu từ năm 2012 và phấn đấu ở mức dưới 10% kim ngạch xuất khẩu vào năm 2015; tỷ lệ thất nghiệp của lao động trong độ tuổi khu vực thành thị đến năm 2015 dưới 4%; thu nhập thực tế của dân cư đến năm 2015 gấp 2-2,5 lần so với năm 2010.

Cơ cấu lại nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng theo hướng nâng cao chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh, thực hiện đồng bộ trong tất cả các ngành, các lĩnh vực trên phạm vi cả nước và từng địa phương, đơn vị cơ sở, sản phẩm chủ


yếu, với tầm nhìn dài hạn và có lộ trình cụ thể. Cần tập trung thực hiện cơ cấu lại nền kinh tế trong 3 lĩnh vực quan trọng là cơ cấu lại đầu tư, trọng tâm là đầu tư công; cơ cấu lại thị trường tài chính, trọng tâm là cơ cấu lại hệ thống ngân hàng thương mại, các tổ chức tài chính; cơ cấu lại doanh nghiệp, trọng tâm là các tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước, ngay từ năm 2012 chuẩn bị các điều kiện để từ năm 2013 đến năm 2015 tạo được chuyển biến mạnh mẽ, cơ bản, có hiệu quả rò rệt.

Cơ cấu lại thị trường tài chính với trọng tâm là cơ cấu lại hệ thống ngân hàng thương mại, các tổ chức tài chính, đổi mới, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước đối với thị trường chứng khoán, thị trường bất động sản, thị trường tiền tệ, đặc biệt là thị trường vàng và ngoại tệ, khắc phục tình trạng đô la hóa; kiểm soát chặt chẽ nợ công, nợ xấu của doanh nghiệp nhà nước, vay trả nợ nước ngoài, các nguồn vốn đầu tư nước ngoài, nhất là đầu tư vào lĩnh vực bất động sản, thị trường chứng khoán và các nguồn vốn nóng khác.

Tiếp tục kiên trì kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, ổn định giá trị sức mua đồng tiền. Thực hiện chính sách tiền tệ với mục tiêu hàng đầu là ổn định giá trị đồng tiền, kiểm soát để bảo đảm tương thích giữa tăng tổng phương tiện thanh toán, tăng dư nợ tín dụng với tốc độ tăng trưởng kinh tế và kiềm chế tăng chỉ số giá tiêu dùng. Giảm dần tỷ lệ huy động vốn đầu tư từ tín dụng ngân hàng, đẩy mạnh kênh huy động vốn qua thị trường chứng khoán và các định chế tài chính khác.

Để thực hiện có kết quả theo Nghị quyết về Kế hoạch phát triển kinh tế xã hội 5 năm 2011 – 2015, phù hợp với bối cảnh, tình hình kinh tế ở thế giới và trong nước, công tác điều hành công cụ lãi suất và hoạt động tín dụng cần thực hiện những giải pháp sau.

3.2 Giải pháp điều hành công cụ lãi suất nhằm hạn chế những ảnh hưởng tiêu cực đến hoạt động tín dụng của các ngân hàng thương mại cổ phần Việt Nam

3.2.1 Hoàn thiện và nâng cao năng lực điều hành công cụ lãi suất của ngân hàng nhà nước


3.2.1.1Nâng cao hiệu quả điều tiết tiền tệ của ngân hàng nhà nước‌‌‌


Thực hiện chính sách thu hút cán bộ nghiên cứu hoạch định chính sách, các chuyên gia về tài chính – ngân hàng có năng lực và trình độ chuyên môn cao. Nâng cao hiệu quả, chất lượng đào tạo đối với các khóa học, chương trình đào tạo dành cho các cán bộ nghiên cứu, hoạch định chính sách. Có chế độ đãi ngộ hợp lý để khuyến khích thu hút nhân tài.

Hiện đại hóa công nghệ quản lý trong việc tổng hợp, thống kê, phân tích, dự báo… phục vụ cho việc điều hành CSTT.

Xây dựng quy định về trách nhiệm của NHNN trong điều hành CSTT, đảm bảo công khai, minh bạch các thông tin về điều hành CSTT: quy định về trách nhiệm của thống đốc NHNN, hình thức báo cáo giải trình của NHNN về điều hành CSTT…

Quy định về hình thức, cơ chế công bố thông tin về lạm phát để tăng cường sự hiểu biết của công chúng về lạm phát.

Cơ cấu lại tổ chức một số Vụ, Cục liên quan để tăng cường sự thống nhất phối hợp giữa các đơn vị NHNN trong điều hành CSTT.

Hạn chế sự bảo hộ, can thiệp của Nhà nước trong lĩnh vực tiền tệ, tín dụng nhằm tạo lập môi trường kinh doanh bình đẳng, nâng cao tính cạnh tranh của các TCTD trong điều kiện hội nhập.

Phối hợp chặt chẽ giữa CSTT với các chính sách kinh tế vĩ mô khác như chính sách tài chính, chính sách thu hút vốn đầu tư nước ngoài…Trong điều kiện dòng vốn đầu tư nước ngoài chảy vào Việt Nam nhiều như một số năm trước đây (trong đó có dòng vốn ngắn hạn), nếu không kiểm soát tốt dòng vốn này, sẽ ảnh hưởng đến việc chống lạm phát. Do đó, cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa CSTT với chính sách tài chính và chính sách thu hút vốn đầu tư nước ngoài như: đánh thuế hoặc yêu cầu ký quỹ đối với dòng vốn ngắn hạn vào Việt Nam. Hiện nay, trong bối cảnh kinh tế thế giới sụt giảm, thì việc điều hành CSTT trong quan hệ phối hợp với chính sách tài


chính nhằm mục tiêu góp phần ngăn chặn nguy cơ sụt giảm nền kinh tế trong nước, nhưng đồng thời kiểm soát được lạm phát.

3.2.1.2Giải pháp hoàn thiện chính sách lãi suất:‌


Trong nền kinh tế hiện đại, tự do hóa tài chính và hội nhập quốc tế và vấn đề mang tính chiến lược và là xu thế phát triển tất yếu, trong đó tự do hóa lãi suất đóng vai trò là hạt nhân, góp phần làm thúc đẩy kinh tế - tài chính Việt Nam hội nhập vào nền kinh tế thế giới phù hợp với xu hướng toàn cầu hóa như hiện nay. Tuy nhiên, quá trình tự do hóa lãi suất tự do hóa lãi suất ở nước ta phải được xem xét kĩ lưỡng và tiến hành một cách thận trọng trong khi vẫn tiếp tục kết hợp với những giải pháp nhằm hoàn thiện dần môi trường tự do hóa lãi suất.

Thứ nhất, việc tự do hóa lãi suất tiền gửi và cho vay ngoại tệ đã được tiến hành tuy nhiên vẫn chưa thực sự đem lại hiệu quả cao. Hiện nay, quy định khống chế lãi suất tiền gửi tối đa bằng VND dưới sáu tháng của khách hàng tại các TCTD vẫn còn, đây là rào cản đối với quá trình tự do hóa lãi suất.

Thứ hai, trên thị trường nội tệ lãi suất cho vay bằng đồng Việt Nam


Chính sách tiền tệ cần được điều hành theo hướng thận trọng, hiệu quả; sử dụng linh hoạt, hiệu quả các công cụ của CSTT; gắn kết chặt chẽ, đồng bộ với chính sách tài khóa nhằm bảo đảm thực hiện mục tiêu kiềm chế lạm phát, tăng cường ổn định vĩ mô và bảo đảm tăng trưởng hợp lý. Để nâng cao năng lực điều hành các công cụ CSTT, trước hết NHNN cần có tín hiệu rò ràng trong điều hành các công cụ CSTT để các thành viên thị trường có thể chủ động trong quản lý thanh khoản của mình. Cần đánh giá và xem xét lại cơ chế điều hành của từng công cụ CSTT và đề ra phương án cải tiến, đồng thời nghiên cứu đưa thêm công cụ mới vào hoạt động.

Đẩy mạnh việc đổi mới điều hành công cụ nghiệp vụ thị trường mở, xem thị trường mở là công cụ được sử dụng rộng rãi nhằm duy trì lãi suất chủ đạo “lãi suất liên ngân hàng định hướng”. Mở rộng việc kết nạp thành viên tham gia thị trường mở. Đa dạng hóa hàng hóa giao dịch trên thị trường mở nhằm đáp ứng thanh khoản cho các TCTD. Tạo điều kiện và thúc đẩy sự phát triển của thị trường tiền tệ liên ngân

Xem tất cả 88 trang.

Ngày đăng: 02/06/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí