Mức Độ Bao Phủ Của Chương Trình Cung Cấp Dịch Vụ Xã Hội Cơ Bản Đối Với Nông Dân


%

Chuẩn nghèo 2

Chuẩn nghèo 1

Chuẩn nghèo hiện nay

20


18


16


14


12


10


8


6


4


2


0

1998 1999 2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007


Hình 2.18: Tỷ lệ hộ nghèo ở Việt Nam giai đoạn 1998 - 2007.


Nguồn: [21]

Tuy tỷ lệ hộ nghèo giảm nhanh, song tốc độ giảm nghèo giữa các vùng không đều; Tây Bắc, Tây Nguyên, Bắc Trung Bộ có tốc độ giảm nghèo nhanh nhất. Khu vực miền núi tỷ lệ hộ nghèo giảm nhanh hơn khu vực đồng bằng, thành thị, nhưng vẫn cao hơn nhiều so với khu vực đồng bằng. Nhóm dân tộc thiểu số có tỷ lệ hộ nghèo cao là Vân Kiều chiếm 60,3%; Pakô 58,5% và Mông 35% năm 2003. [19]

D©n téc kinh

D©n téc Ýt ng−êi

90

80

70

60

50

40

30

20

10

0

1992 1998 2005


Hình 2.19: Tỷ lệ hộ nghèo của người kinh và người dân tộc thiểu số trong tổng số hộ nghèo ở Việt Nam giai đoạn 1992 - 2005

Nguồn: [19]


2.2.2.5. Mức độ bao phủ của chương trình cung cấp dịch vụ xã hội cơ bản đối với nông dân

Đến thời điểm hiện nay, người nông dân đã được tiếp cận tới các dịch vụ cơ bản tốt hơn giai đoạn trước đó, nhưng nhìn chung mức độ bao phủ của những chương trình cung cấp dịch vụ xã hội cơ bản của Việt Nam thời gian qua vẫn còn chưa bền vững trong giáo dục, y tế, nước sạch và vệ sinh môi trường.

Thứ nhất, trong lĩnh vực giáo dục

Trung bình trong ba năm thống kê liên tiếp (từ năm học 2003 -2004 đến 2006- 2007) có khoảng 3% trẻ em bỏ học ở bạc tiểu học. Tổng số trẻ em bỏ học bậc tiểu học, tính đến hết năm 2007, là hơn 800 nghìn. Phần lớn số học sinh này đều tập trung ở những vùng nông thôn, vùng sâu, vùng xa, miền núi khó khăn. Học sinh bỏ học do nhiều nguyên nhân, nhưng nổi lên chính là do tình trạng kinh tế khó khăn, các hộ gia đình nông dân buộc phải cho con em nghỉ học. Tỷ lệ tái mù ở khu vực nông thôn vì thế có xu hướng tăng lên.

Bảng 2.7: Số học sinh bỏ học ở bậc tiểu học ở Việt Nam giai đoạn 2003 – 2007


Bậc học/ Năm

Tổng số học sinh

Số em bỏ học

Tỷ lệ (%)

2003 - 2004

8.350.191

261.405

3,13

2004 - 2005

7.773.484

174.700

2,25

2005 - 2006

7.318.313

244.065

3,33

2006 - 2007

7.041.312

214.171

3,04

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 241 trang tài liệu này.

An sinh xã hội đối với nông dân trong điều kiện kinh tế thị trường ở Việt Nam - 16

Nguồn: [79]

Thứ hai, chăm sóc sức khỏe ban đầu

Tình trạng không điều trị khi ốm đau ở khu vực nông thôn phổ biến hơn khu vực thành thị. Mặc dù có nhu cầu chăm sóc sức khỏe, nhưng khả năng tiếp cận và sử dụng các dịch vụ y tế của người nông dân khi mắc bệnh lại thấp. Kết quả theo dõi điểm tại một số tỉnh do Bộ Y tế tiến hành 2001 - 2002 cho thấy, ở miền Bắc 40% người nông dân bị ốm không đi điều trị. Có rất nhiều lý do để giải thích tình trạng không đi khám chữa bệnh của người dân nông thôn, bệnh nhẹ không


cần chữa, hoặc bệnh nặng không thể chữa được, cơ sở y tế quá xa (năm 2005 cả nước còn 197 xã chưa có trạm y tế), không đủ tiền để chữa trị, hoặc không được

tiếp xúc với bác sĩ...

Nông thôn đồng bằng

Nông thôn miền núi

Chung

90


80


70


60


50


40


30


20


10


0

Trạm Y tế Phòng khám định kỳ khu vực Phòng khám tư nhân


Hình 2.20: Tỷ lệ lượt điều trị ngoại trú được tiếp xúc với bác sĩ ở nông thôn năm 2002

Nguồn: [12]

Công tác chăm sóc sức khỏe ban đầu cho người dân khu vực nông thôn chưa tốt đã làm cho tỷ lệ suy dinh dưỡng và tỷ suất chết của trẻ em khu vực nông thôn cao hơn mức trung bình cả nước. Tây Bắc và Tây Nguyên là hai khu vực có tỷ lệ trẻ em suy dinh dưỡng và tử vong cao nhất trong cả nước.


Tỷ lệ suy dinh dưỡng trẻ em

(%)

Tỷ suất chết trẻ em dưới 1 tuổi

(%)

Chung

26,6

17,8

Nông thôn

30,8

20,4


Tây Bắc

32

33,9

Tây Nguyên

35,8

28,8

Bảng 2.8: Tỷ lệ suy dinh dưỡng và tỷ suất chế trẻ em dưới 1 tuổi ở Việt Nam (năm 2004)


Nguồn: [76]


Thứ ba, cung cấp nước sạch và vệ sinh môi trường

Chương trình nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn do Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn thực hiện thời gian qua tuy đã đạt được nhiều thành tích trong cấp nước sạch, song thực tế số lượng và tỷ lệ người dân nông thôn được tiếp cận và sử dụng nước sạch, hợp vệ sinh còn thấp hơn rất nhiều so với báo cáo của chương trình. Mặc dù vượt mục tiêu đặt ra đối với cung cấp nước sạch cho người dân nông thôn (tham khảo hình 2.21), nhưng tiêu chuẩn về nước sạch cho người dân nông thôn mà Bộ NN&PTNT đưa ra lại kém xa so với tiêu chuẩn về nước sạch quốc gia. Tiêu chí đánh giá nước sạch cho khu vực nông thôn mà Bộ NN&PTNT đưa ra bao gồm: nước máy, nước giếng khoan, nước mưa, nước máng lần và nước giếng khơi nếu không có nguồn ô nhiễm trong vòng bán kính 7m xung quang giếng. Đây là những tiêu chí đánh giá dựa vào việc phân loại nguồn nước và quan sát cảm giác, không dựa vào tiêu chuẩn xét nghiệm khoa học... (tham khảo hình 2.21)

Mục tiêu

43% 48%

44%

39%

38%

34%

34%

32%

45000 80%


40000


70%


35000


30000


25000


20000


15000


10000


60%


50%


40%


30%


20%


5000

10%


0

Chung cả nước


ĐBS Hồng


Đông và Tây Băc


Bắc Trung Bộ


Nam Trung Bộ


Tây Nguyên


Đông Nam Bộ

0%

ĐBS Cửu Long


Số được cấp nước sạch (Nghìn người)


Số chưa được cấp nước sạch (Nghìn người)


Tỷ lệ người được cấp nước sạch

so với mục tiêu (%)


Tỷ lệ người chưa được cấp nước sạch

so với mục tiêu (%)


Hình 2.21: Kết quả cấp nước sạch cho khu vực nông thôn tính theo vùng (năm 2005)

Nguồn: [11]


Vấn đề ô nhiễm môi trường ở nông thôn trở nên nan giải và có tác động xấu đối với sức khỏe người lao động, bởi sự phát triển của các làng nghề. Đến năm 2006, cả nước có hơn 1.450 làng nghề. Tuy nhiên, vệ sinh môi trường tại các làng nghề lại chưa được người dân và chính quyền địa phương quan tâm thỏa đáng. 100% mẫu nước thải ở các làng nghề đều cho thông số vượt quá tiêu chuẩn cho phép, nước mặt nước ngầm đều có dấu hiệu ô nhiễm, lao động tại các làng nghề tiếp xúc với bụi, nóng, hóa chất, nguy cơ tai nạn cao nhưng trang bị bảo hộ lao động hầu như không có... Chính vì thế tại các làng nghề cơ khí, sản xuất vật liệu, gốm, sứ do đốt lượng than nhiều nên tỷ lệ người mắc bệnh về phổi, phế quản khá cao. Các làng nghề chế biến nông sản, thực phẩm hay mắc bệnh về đường tiêu hóa. Đối với làng nghề sử dụng nhiều hóa chất như vải sợi, mạ kim loại, tái chế chì, nhôm, kẽm, nhựa và sản xuất giấy thì tỷ lệ mắc ung thư, nhiễm độc kim loại cao [49].

2.2.3. Mức độ bền vững về tài chính để thực hiện chương trình an sinh xã hội đối với nông dân

2.2.3.1. Đối với các đối tượng tham gia bị động

Đây là những đối tượng của các chương trình xóa đói giảm nghèo, cung ứng dịch vụ xã hội cơ bản, trợ giúp xã hội và BHYT bắt buộc. Nguồn tài chính để thực hiện an sinh xã hội cho những đối tượng này hoàn toàn phụ thuộc vào NSNN. Thời gian qua, kinh tế Việt Nam không ngừng tăng trưởng, GDP bình quân hàng năm tăng khoảng 7,7%, do đó nguồn tài chính để thực hiện các mục tiêu tốt hơn giai đoạn trước đó. Thêm vào đó, với sự mở rộng các quan hệ hợp tác quốc tế, sự tài trợ của các tổ chức phi chính phủ, các tổ chức nhân đạo quốc tế, trong nước đã tạo điều kiện cho người nông dân được tham gia nhiều hơn vào các chương trình an sinh xã hội.

Mặc dù tăng chi NSNN cho những đối tượng cần được trợ cấp thường xuyên nhưng còn rất nhiều đối tượng vẫn đang nằm ngoài phạm vi bao phủ của hệ thống này, tình trạng trợ giúp xã hội đột xuất cũng chưa công bằng giữa các vùng, các miền. Nói cách khác, tài chính cho việc thực hiện ASXH đối với những đối tượng nông dân tham gia bị động có tính ổn định và bền vững chưa cao.


2.2.3.2. Đối với các đối tượng tham gia chủ động

Đó là những đối tượng của chương trình BHYT tự nguyện và BHXH tự nguyện. Mức độ tài chính để đảm bảo cho hệ thống này hoạt động phải dựa vào thu chi ngân sách của quỹ. Tuy nhiên, do thu nhập thấp nên khả năng đóng góp để tham gia vào BHYT & BHXH tự nguyện của người nông dân cũng thấp. Do đó mất cân đối thu chi quỹ là điều tất yếu. (Tham khảo bảng 2.9)

Sự mở rộng đối tượng tham gia, phạm vi quyền lợi và xác định mức đóng BHYT tự nguyện chưa gắn với nhau một cách hợp lý. Thêm vào đó phí dịch vụ tăng, các yếu tố khách quan khác như dịch bệnh diễn ra trên diện rộng, sự không điều chỉnh kịp thời mức đóng phí so với mức độ gia tăng chi phí dịch vụ y tế là nguyên nhân dẫn tới tình trạng mất cân đối thu chi của quỹ BHYT tự nguyện năm 2006.

Bảng 2.9: Tổng hợp thu, chi của BHYT TN của Việt Nam giai đoạn 2000-2006



2000

2001

2002

2003

2004

2005

2006

Số thu (tỷ đồng)

96,9

77

97,1

173

243

394

746

HSSV




171

219

273

382,5

Nhân dân




2

24

121

363,5

Số chi (tỷ đồng)




96

202

555

1.843

HSSV





115.

204,5

485

Nhân dân





97

359,5

1.358

Cân đối thu-chi (tỷ đồng)




77

41

-161

-1.097

Nguồn: [41]

Nhận xét chung về mức tác động, mức độ bao phủ, hình thức tham gia của người nông dân có ảnh hưởng như thế nào đến mức độ bền vững về tài chính của hệ thống an sinh xã hội đối với nông dân Việt Nam hiện nay.

Thứ nhất, về mức độ tác động: Các chương trình an sinh xã hội đối với khu vực nông thôn nói chung, người nông dân Việt Nam nói riêng thời gian qua đã mang lại những kết quả tích cực. Người nông dân có điều kiện làm việc nhiều hơn, tỷ lệ sử dụng thời gian lao động ở khu vực tăng lên đáng kể. Chính điều này đã giúp người nông dân tăng thu nhập, thúc đẩy kinh tế tăng trưởng nhanh, được tiếp cận nhiều hơn


tới các dịch vụ xã hội cơ bản, đời sống từng bước được cải thiện góp phần thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội. Tuy nhiên, khi xét về các con số cụ thể, thì những tác động này cũng còn nhiều hạn chế. Sự phát triển của hệ thống an sinh xã hội đối với người dân mặc dù đã tác động tích cực đến tình hình chuyển dịch cơ cấu lao động trong khu vực nông thôn, nhưng nhìn chung trong 8 vùng kinh tế trên cả nước thì không có vùng nào có dưới 50% số hộ gia đình sống ở nông thôn tham gia hoạt động nông nghiệp [3]; tỷ lệ người nghèo và hộ nghèo giảm đáng kể trong thời gian qua nhưng tình trạng tái nghèo còn lớn [19]; đã tuyên bố hoàn thành giáo dục phổ cập nhưng tỷ lệ bỏ học của trẻ em khu vực nông thôn đang có xu hướng gia tăng [79].

Thứ hai, về mức độ bao phủ: Đến hết năm 2006, cả nước chỉ có 83% số người nghèo được tham gia BHYT, bởi Nhà nước là người cung ứng thẻ BHYT bắt buộc; khoảng 8,5% dân chúng tham gia BHYT tự nguyện (bao gồm cả học sinh, sinh viên và người lao động khu vực phi chính thức); tỷ lệ nông dân tham gia BHXH tự nguyện còn thấp hơn, dưới 5%. Con số thống kê của Vụ Bảo trợ xã hội, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội cho biết, mới có 33,7% người nông dân được nhận trợ giúp xã hội thường xuyên. Tỷ lệ hộ nông dân nghèo khoảng 7%. Tỷ lệ nông dân được tiếp cận tới hệ thống dịch vụ xã hội cơ bản chưa đồng đều giữa các vùng, miền. Nếu đến hết năm 2007 cả nước có 99,3% hộ nông dân được sử dụng điện, thì chỉ có 62% người nông dân được sử dụng nước sạch, tỷ lệ trẻ em bỏ học ở bậc tiểu học giai đoạn 2003-2007 khoảng 3%/năm [41], [98].

Thứ ba, hình thức tham gia của người nông dân có tác động chưa tốt đến mức độ bền vững về tài chính cho việc thực thi các chương trình trong hệ thống an sinh xã hội đối với nông dân Việt Nam hiện nay.

Nông dân Việt Nam, phần lớn tiếp cận tới hệ thống an sinh xã hội dưới hình thức bị động. Những người này tiếp cận hệ thống an sinh xã hội đối với nông dân dưới sự trợ giúp của Nhà nước và cộng đồng thông qua các chương trình trợ giúp xã hội, xóa đói giảm nghèo hay cung cấp dịch vụ xã hội cơ bản và cấp thẻ BHYT bắt buộc cho người nghèo.

Sự tham gia của người nông dân vào các chương trình an sinh xã hội dưới hình thức đóng góp cùng Nhà nước và cộng đồng là có nhưng không bền vững, tùy thuộc


vào điều kiện kinh tế của từng địa phương. Ở Nga Sơn-Thanh Hóa, Cao Thắng, Thanh Miện-Hải Dương, Ý Yên-Ninh Bình... đã vận động nhân dân góp tiền xây dựng nhà văn hóa thôn để sinh hoạt với mức đóng góp từ 100 đến 250 nghìn đồng/người (tác giả trực tiếp phỏng vấn sinh viên lớp Công nghệ thông tin K48 tại Trường đại học Kinh tế quốc dân). Người dân ở những xã này cũng thực hiện chủ trương Lá rách ít đùm lá rách nhiều, đó là mỗi hộ gia đình ở những vùng này đóng góp từ 10 đến 20 nghìn đồng để hỗ trợ đồng bào ở các vùng khác bị thiên tai trên toàn quốc.

Hình thức tự đóng góp để tham gia vào hệ thống ASXH của người nông dân thông qua hệ thống BHYT & BHXH tự nguyện thì mới chỉ thu hút được một bộ phận nhỏ nông dân tham gia.

Vì vậy, nguồn tài chính cho việc thực thi các chương trình của hệ thống an sinh xã hội đối với nông dân không mang tính bền vững cao.


Dịch vụ xã i

cơ bản

Quỹ dự phòng (nhà nước)


Đột xuất

Trợ

gi xã hội

Bảo hiểm xã hội ự nguyện

Thường xuyên

Các chương trình an sinh xã hội đối với nông dân Việt Nam



Xóa i giảm nghèo

Tham gia (được nhận trợ giúp) của Nhà nước và cộng đồng


Bảo hiểm y tế tự nguyện

Tham gia (đóng góp cùng Nhà nước và cộng đồng)


Tự đóng góp tham gia


Hình 2.22: Các hình thức tham gia vào hệ thống an sinh xã hội đối với nông dân ở Việt Nam

Nguồn: Tác giả [3]

Xem tất cả 241 trang.

Ngày đăng: 03/12/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí