Xử lý vi phạm pháp luật về bảo hiểm xã hội ở Việt Nam - 11

tính thời gian công tác của ông từ tháng 9/1976 đến tháng 12/1989 để ông được hưởng các chế độ BHXH theo quy định. Xét thấy, ông Măng có thời gian công tác trong ngành giáo dục thuộc huyện Châu Thành, tỉnh Hậu Giang từ tháng 9/1976 đến tháng 12/1989. Từ tháng 01/1990 đến tháng 9/1993 ông Măng tự ý xin nghỉ việc vì hoàn cảnh gia đình, đến tháng 01/1998 ông tiếp tục quay lại làm việc cho đến nay.

Căn cứ vào các quy định của pháp luật thì yêu cầu của ông Măng là không có căn cứ chấp nhận. Theo quy định tại điểm 18, khoản 9, Điều 1 Thông tư số 41/2009/TT-LĐTBXH ngày 30/12/2009 của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội quy định: “Việc tính thời công tác trước ngày 01 tháng 01 năm 1995 để hưởng BHXH được thực hiện theo hướng dẫn tại các văn bản quy định trước đây về thời gian công tác trước ngày 01 tháng 01 năm 1995 để hưởng BHXH của cán bộ, công chức, viên chức, công nhân, quân nhân và công an nhân dân”. Theo các văn bản trước đây thì căn cứ vào tiểu mục c, mục 12, phần II Thông tư số 13/NV ngày 04/9/1972 của Bộ Nội vụ và tại tiểu mục c, mục 12, phần II Thông tư số 07-TT/76 ngày 18/6/1976 của Phủ Chủ tịch - Chính phủ cách mạng lâm thời quy định: “ … những trường hợp không do yêu cầu của tổ chức mà công nhân, viên chức tự ý xin thôi việc, quân nhân xin giải ngũ vì hoàn cảnh riêng, sau được trở lại làm việc thì thời gian công tác trước khi nghỉ việc hoặc giải ngũ không được tính là thời gian công tác liên tục mà chỉ được tính là thời gian công tác nói chung (thời gian nghỉ việc không tính)…”.

Thời gian công tác nói chung được quy định tại mục 1, phần I Thông tư số 13/NV ngày 04/9/1972 của Bộ Nội vụ và Thông tư số 07-TT/76 ngày 18/6/1976 của Phủ Chủ tịch - Chính phủ cách mạng lâm thời quy định: “để xét xem người công nhân, viên chức đã lao động cho xã hội nhiều hay ít để được hưởng quyền nghỉ ngơi khi tuổi già (chế độ hưu trí)”.

Như vậy, thời gian ông Măng làm việc từ tháng 9/1976 đến tháng 12/1989 chỉ được tính để xem xét cho hưởng chế độ hưu trí, không được tính là thời gian công tác liên tục để được hưởng các chế độ BHXH theo quy định.

2. Vụ việc của bà Mai Thị Hằng, Cần Thơ

Người khởi kiên: Bà Mai Thị Hằng sinh năm 1958.

Địa chỉ: 53/13, Nguyễn Việt Dũng, KV3, phường An Thới, quận Bình Thủy, thành phố Cần Thơ

Người đại diện theo ủy quyền: ông Phạm Hoàng Vinh, sinh năm 1978.

Địa chỉ: 140B/19C1, Nguyễn Văn Cừ, phường An Hòa, quận Ninh Kiều, thành phố Cần Thơ (Văn bản ủy quyền ngày 23/11/2013, có mặt)

Người bảo vệ quyển và lợi ích hợp pháp cho người khởi kiện: Luật sư Lê Hoàng Nhí - Công ty TNHH MTV Lê Hoàng, thuộc Đoàn luật sư thành phố cần Thơ.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 91 trang tài liệu này.

Người bị kiên: Giám đốc Bảo hiểm xã hội thành phố cần Thơ

Địa chỉ: 138X/20 Nguyễn Văn Cừ, phường An Khánh, quận Ninh Kiều, thành phố Cần Thơ.

Xử lý vi phạm pháp luật về bảo hiểm xã hội ở Việt Nam - 11

Người đại diện theo ủy quyền: Ông Nguyễn Thanh Long, sinh năm 1958: chức vụ: Phó giám đốc Bảo hiểm xã hội thành phổ Cần Thơ

Theo đơn khởi kiện ngày 28/10/2013 bà Mai Thị Hằng trình bày:

Bà không đồng ý với Công văn 541/BHXH ngày 01/8/2013 của Giám đốc Bảo hiểm xã hội thành phố cần Thơ về việc tính thời gian đóng bảo hiểm xã hội của bà. Yêu cầu tòa án hủy bỏ công văn 541/BHXH ngày 01/8/2013 của Giám đốc Bảo hiểm xã hội thành phố cần Thơ về việc tính thời gian đóng bảo hiểm xã hội của bà gồm thời gian công tác trong quân đội và thời gian công tác tại phường với chức danh phó chủ tịch ủy ban mặt trận tổ quốc phường An Thới, phó chủ tịch Hội liên hiệp phụ nữ phường An Thới.

Ngày 10/10/2014 ông Phạm Hoàng Vinh (Đại diện ủy quyền của bà Hằng) có đơn rút một phần nội dung khởi kiện về nội dung của công văn 541/BHXH ngày 01/8/2013 của Giám đốc Bảo hiểm xã hội thành phố cần Thơ về việc tính thời gian đóng bảo hiểm xã hội của bà Hằng khi đang công tác trong quân đội, vẫn giữ yêu cầu khởi kiện về thời gian giữ chức vụ Phó Chủ tịch Ủy ban mặt trận Tổ quốc phường An Thới, Phó Chủ tịch Hội liên hiệp phụ nữ phường An Thới. Căn cứ pháp lý ông Vinh trình bày theo Khoản 2 Điều 1 Nghị định 29/2013/NĐ-CP ngày 8/4/2013, Điều 2 thông tư 24/2013/TT-BLĐTBXH ngày 17/10/2013, công văn số 1203/BHXH ngày 11/4/2014 của Bảo hiểm xã hội Việt Nam, Nghị định 09/1998/NĐ- CP ngày 23/01/1998.

Tại bản tự khai ngày 06/7/2015 ông Phạm Hoàng Vinh:

1/ Yêu cầu Bảo hiểm xã hội TP. cần Thơ cộng nối thời gian bà Hằng giữ chức danh Phó Chủ tịch Hội liên hiệp phụ nữ phường từ ngày 01/01/1986 đến 31/10/1988. Cộng nối thời gian giữ chức danh Phó Chủ tịch Uy ban mặt trận Tổ quốc phường từ 01/01/1990 đến 31/01/2001.

2/ Yêu cầu Bảo hiểm xã hội TP. cần Thơ chi trả và bồi thường các khoản:

+ Chi trả lương hưu hàng tháng kể từ ngày 01/9/2013.

+ Bồi thường tiền mua bảo hiểm y tế 02 năm 1.242.000 đồng.

+ Bồi thường lãi suất 2 năm trên số tiền 83.190.000 đồng (tạm tính đến tháng 9/2015) là 7.487.100 đồng.

Đại diện BHXH thành phố cần Thơ - Ông Nguyễn Thanh Long trình bày: Thời gian công tác tại phường An Thới của bà Hằng:

+ Từ năm 1986 đến tháng 01/1990: Đảm nhiệm chức danh Phó Chủ tịch Hội liên hiệp phụ nữ phường, trưởng khu vực 6 Chủ tịch Hội chữ thập đỏ, Phó Chủ tịch Ủy ban Mặt trận tổ quốc Việt Nam phường An Thới.

+ Từ tháng 01/1990 đến tháng 12/2000: Đảm nhiệm các chức danh Phó chủ tịch Hội chữ thập đỏ, Phó Chủ tịch ủy ban Mặt trận tổ quốc Việt Nam phường An Thới.

Bảo hiểm xã hội TP. cần Thơ đã căn cứ vào các quy định tại: Điều 16 nghị định 92/2009/NĐ-CP ngày 22/10/2009; Khoản 2 Điều 1 Nghị định số 29/2013/NĐ- CP ngày 08/04/2013 sửa đổi, bổ sung nghị định 92/2009/NĐ-CP ngày 22/10/2009; Điều 8 Thông tư số 03/2010/TTLT-BNV-BTC-BLĐTB&XH ngày 27/5/2010 hướng dẫn thực hiện nghị định 92/2009/NĐ-CP ngày 22/10/2009 quy định giải quyết về chế độ, chính sách đối với cán bộ xã có thời gian đảm nhiệm chức danh theo nghị định 09/1998/NĐ-CP.

Đối chiếu các quy định trên, do trước ngày 01/01/1998 bà Hằng không đảm nhiệm các chức danh được hưởng chế độ khi nghỉ việc theo Nghị định số 09/1998/NĐ-CP nên thời gian công tác trước ngày 01/01/1998 của bà Hằng không được tính thời gian đóng bảo hiểm xã hội. Cho nên trường hợp bà Hằng không thuộc đối tượng đóng bảo hiểm xã hội và không được tính thời gian đóng bảo hiểm

xã hội, không thuộc đối tương điều chỉnh của Nghị định số 29/2013/NĐ-CP ngày 8/4/2013, Thông tư 24/2013/TT-BLĐTBXH ngày 17/10/2013.

Tại Bản án hành chính sơ thẩm số 07/2015/HCST ngày 24/9/2015 của Tòa án nhân dân thành phố Cần Thơ, quyết định:

Áp dụng khoản 1 Điều 28, Điểm c khoản 1 Điều 30 Luật Tố tụng hành chính, khoản 2 điều 16 Nghị định 92/2009/NĐ-CP ngày 22/10/2009; khoản 2 điều 1 Nghị định 29/2003/NĐ-CP ngày 08/4/2013; khoản 1,2,3,4,5,7 Điều 3 Nghị Định số 9/NĐ-CP ngày 23/01/1998 sửa đổi bổ sung NĐ số 50/CP ngày 26/7/1995; Thông tư sổ 24/2013/TT- BLĐTBXH ngày 17/10/2013 của Bộ Lao động thương binh và xã hội, Điều 27 Pháp lệnh án phí, lệ phí Tòa án;

Tuyên xử:

Bác yêu cầu của người khởi kiện - bà Mai Thị Hằng (có ông Phạm Hoàng Vinh là người đại diện theo ủy quyền) về việc khiếu kiện yêu cầu hủy văn bản số 541/BHXH ngày 01/8/2013 của Giám đốc Bảo hiểm TP. Cần Thơ về việc tính thời gian đóng bảo hiểm xã hội của bà Hằng công tác tại phường từ tháng 01/1986 đến 31/01/2001.

Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn quyết định về án phí và quyền kháng cáo vụ án theo luật định.

Ngày 01/10/2015 ông Phạm Hoàng Vinh là người đại diện hợp pháp của bà Mai Thị Hằng kháng cáo yêu cầu hủy toàn bộ bản án sơ thẩm, yêu cầu sửa bản án sơ thẩm theo hướng chấp nhận yêu cầu khởi kiện của người khởi kiện.

Quan điểm của vị đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại thành phố Hồ Chí Minh: Hội đồng xét xử cấp phúc thẩm thực hiện đúng thủ tục tố tụng theo quy định của pháp luật, cũng phân tích toàn bộ các chứng cứ có thể hiện trong hồ sơ vụ án, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 205 của Luật Tố tụng hành chính, không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của ông Phạm Hoàng Vinh là người đại diện họp pháp của bà Mai Thị Hằng. Giữ nguyên bản án hành chính sơ thẩm của Tòa án nhân dân thành phố cần Thơ.

Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ thể hiện trong hồ sơ vụ án cũng như qua

thẩm tra công khai tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh luận của các đương sự và ý kiến của vị đại diện Viện kiểm sát. Đối chiếu với các quy định của pháp luật cho thấy, do thời gian trước ngày 01/01/1998 bà Hằng không đảm nhiệm chức danh, chức vụ được hưởng chế độ nghỉ việc theo Nghị định số 09/1998/NĐ-CP nên thời gian công tác trước ngày 01/01/1998 cho đến tháng 12/2000 các chức danh, chức vụ bà Hằng đảm nhiệm không thuộc đối tượng đóng bảo hiểm xã hội, nên không được tính thời gian đóng bảo hiểm xã hội. Mặt khác, xét thấy trước ngày 01/01/1998 bà Hằng vẫn công tác tại phường An Thới, không được điều động tuyển dụng vào quân đội nhân dân, công an nhân dân hoặc làm việc trọng các cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp của nhà nước, Tổ chức chính trị, tổ chức chính trị xã hội trước ngày 01/01/1998. Riêng việc bà Hằng công tác trong quân đội từ năm 1976 đến năm 1979, Bảo hiểm xã hội đã có xem xét cho bà Hằng và phía bà Hằng đã chấp nhận không khiếu nại đối với mốc thời gian trong quân đội. Từ năm 1979 bà tự nghỉ việc do có gia đình đến năm 1984 tiếp tục xin vào làm việc và giữ các chức danh, chức vụ như đã nêu trên. Đối chiếu với quy định tại Điều 2 Thông tư số 24/2013/TT- BLĐTBXH thì bà Hằng không hội đủ các điều kiện được tính thời gian đóng bảo hiểm. Điều này cũng được Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội có Công văn số 2652/LĐTBXH-BHXH ngày 25/7/2014 trả lời “Trường hợp bà Mai Thị Hằng không thuộc diện áp dụng theo quy định tại Thông tư số 24/2013/TT-BLĐTBXH”.

Mặt khác, ông Phạm Hoàng Vinh là người đại diện hợp pháp của bà Mai Thị Hằng cũng không có cung cấp hay bổ sung thêm tình tiết chứng cứ nào mới để làm cơ sở cho việc yêu cầu kháng cáo của bà.

Do đó, Hội đồng xét xử xét đơn kháng cáo của ông Phạm Hoàng Vinh là người đại diện hợp pháp của bà Mai Thị Hằng là không có cơ sở để thực hiện theo yêu cầu kháng cáo của bà. Hội đồng xét xử thống nhất với quan điểm của vị đại diện Viện kiểm sát, không chấp nhận kháng cáo của ông Phạm Hoàng Vinh là người đại diện hợp pháp của bà Mai Thị Hằng, ông Phạm Hoàng Vinh là người đại diện hợp pháp của bà Mai Thị Hằng. Giữ nguyên bản án hành chính sơ thẩm của Tòa án nhân dân thành phố cần Thơ.

3. Vụ việc của ông Nguyễn Văn Lục và bà Đinh Thị Vịnh, Bắc Giang

- Ông Nguyễn Văn Lục: Được nghỉ việc để hưởng chế độ hưu trí theo Quyết định số 54 ngày 20/5/1993 của Công ty Vật tư nông nghiệp (Bắc Giang). Theo đó, ông Lục sinh năm 1947, có thời gian công tác thực tế là 30 năm 03 tháng; thời gian công tác quy đổi để tính hưởng chế độ là 32 năm 09 tháng.

Nhận lương hưu tại Hà Tĩnh và chuyển về Bắc Giang từ tháng 8/2011

- Đối với bà Định Thị Vịnh: Được nghỉ việc để hưởng chế độ hưu trí theo Quyết định số 02 ngày 20/11/1993 của Công ty Vật tư nông nghiệp (Hà Tĩnh). Theo đó, bà Vinh sinh năm 1950, có thời gian công tác thực tế là 25 năm 7 tháng; thời gian công tác quy đổi để tính hưởng chế độ là 26 năm 11 tháng.

Chuyển về Bắc Giang nhận lương hưu từ tháng 8/2011.

- Bà Đinh Thị Điển, có địa chỉ tại 118 ngò Xã Đàn II, phường Nam Đồng, Đống Đa, Hà Nội có đơn tố cáo về hành vi giả mạo hồ sơ của ông Lục, bà Vịnh để hưởng chế độ hưu trí. Theo đó, thời gian công tác thực tế không đúng so với thời gian ghi trong quyết định nghỉ hưu và sửa năm sinh (ông Lục sinh năm 1952, sửa thành năm 1947; bà Vịnh sinh năm 1954, sửa thành năm 1952).

- Ngày 18/7/2015 Cơ quan Cảnh sát điều tra công an tỉnh Bắc Giang có Công văn số 2109/PC46 gửi BHXH tỉnh Bắc Giang, đề nghị tạm dừng chi trả lương hưu đối với ông Lục, bà Vinh để phục vụ cho công tác điều tra.

- Ngày 01/4/2016 Cơ quan Cảnh sát điều tra công an tỉnh Bắc Giang có Công văn số 155/PC46 gửi BHXH tỉnh Bắc Giang. Theo đó:

+ Ông Lục có tổng thời gian công tác kê khai 30 năm 03 tháng, trong đó có 10 năm 08 tháng làm tại Lâm trường Đô lương, Nghệ an là không đúng.

+ Bà Vịnh có tổng thời gian công tác kê khai 25 năm 07 tháng, trong đó có 07 năm 04 tháng tại Ngân hàng Ngoại Thương và 02 năm 07 tháng tại Công ty Cầu đường Hà Bắc là không đúng.

+ Đề nghị BHXH tỉnh Bắc Giang hủy Quyết định chi trả lương hưu đối với ông Lục, bà Vịnh; truy thu số tiền hưởng sai quy định; giải quyết chế độ theo thời gian công tác thực tế theo quy định.

- Ngày 22/8/2016, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội có Công văn số 3145/LĐTBXH-BHXH. Theo đó: BHXH tỉnh Bắc Giang có trách nhiệm thực hiện theo đề nghị của Cơ quan điều tra; Việc giải quyết lại chế độ đối với ông Lục, bà Vịnh thực hiện trên cơ sở thời gian công tác theo xác định của Cơ quan điều tra.

Vụ việc đang được Tòa án nhân dân tỉnh xét xử.

Xem tất cả 91 trang.

Ngày đăng: 17/07/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí