Giá Trị Tư Tưởng Hồ Chí Minh Về Xây Dựng Đảng


* Xây dựng đạo đức của cán bộ, đảng viên

Hồ Chí Minh xác định đạo đức cách mạng là nền gốc cho tư duy và hành động đúng đắn của mỗi cán bộ, đảng viên. Người ví đạo đức cách mạng như nguồn nuôi dưỡng, phát triển, hoàn thiện con người, như gốc rễ của cây, ngọn nguồn của sông suối. Người nhấn mạnh: “Cũng như sông thì có nguồn mới có nước, không có nguồn thì sông cạn. Cây phải có gốc, không có gốc thì cây héo. Người cách mạng phải có đạo đức, không có đạo đức cách mạng thì dù có tài giỏi đến mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân” [59, tr.292]

Nội dung xây dựng đạo đức cho cán bộ, đảng viên của Đảng bao gồm: Xây dựng lòng trung thành, kiên định với mục tiêu, lý tưởng cách mạng; xây dựng các đức tính cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư; xây dựng tinh thần yêu thương con người và có tinh thần quốc tế trong sáng.

Để xây dựng đạo đức cách mạng cho cán bộ, đảng viên, Hồ Chí Minh đã chỉ ra những nguyên tắc cơ bản chỉ đạo quá trình xây dựng, tu dưỡng, rèn luyện đạo đức. Đó là các nguyên tắc: Nói đi đôi với làm, phải nêu gương về đạo đức; phải tu dưỡng đạo đức suốt đời; kết hợp xây dựng đạo đức cách mạng với đấu tranh chống các biểu hiện phi đạo đức, nhất là chủ nhĩa cá nhân.

Cùng với việc nêu ra những nguyên tắc trong việc xây dựng, tu dưỡng, rèn luyện đạo đức cho cán bộ, đảng viên. Theo Hồ Chí Minh, để xây dựng Đảng về đạo đức cần thực hiện các biện pháp sau:

Thường xuyên làm tốt công tác giáo dục đạo đức, lối sống trong toàn Đảng

Đây là nội dung có ý nghĩa hết sức quan trọng, bởi vì, theo Hồ Chí Minh: “Đạo đức cách mạng không phải trên trời sa xuống”. Đạo đức cách mạng là kết quả của quá trình rèn luyện, bền bỉ hàng ngày, và suốt đời của cán bộ, đảng viên. Chỉ có thông qua sự nỗ lực, tự giác tu dưỡng, rèn luyện thì đạo đức cách mạng mới phát triển và củng cố “như ngọc càng mài càng sáng, vàng càng luyện càng trong” [65, tr.612]. Giáo dục, rèn luyện đạo đức cách mạng cho cán bộ, đảng viên phải thường xuyên, liên tục và kiên trì trong đấu tranh tự phê bình và phê bình hàng ngày. Nội dung bồi dưỡng đạo đức cách mạng phải sát với từng đối tượng, có yêu cầu cụ thể, gắn với từng cấp, từng ngành, từng nhiệm vụ theo cương vị, chức trách. Trong đó, thường xuyên giáo dục, bồi dưỡng nâng cao


nhận thức về mục tiêu, lý tưởng cộng sản, lòng trung thành; rèn luyện bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức, lối sống, tình yêu thương con người, sống khiêm tốn giản dị, nói đi đôi với làm; bồi dưỡng trình độ trí tuệ và tác phong, phương pháp, tác phong công tác của mỗi cán bộ, đảng viên, nhất là đội ngũ cán bộ có chức, có quyền.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 224 trang tài liệu này.

Kiên quyết đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân

Hồ Chí Minh cho rằng, chủ nghĩa cá nhân “chỉ biết vì danh vì lợi”. Về lập trường, “họ không rành mạch ai là bạn, ai là thù”. Bất kỳ việc gì “cũng xuất phát từ lợi ích cá nhân”. Đối với sự lãnh đạo của Đảng và chủ nghĩa xã hội, “họ chỉ nhận thức một cách mơ hồ”. Về mặt công tác, “họ muốn làm người chuyên gia nổi tiếng, để tạo cho mình địa vị và oai quyền”. Đối với những người cùng trong một ngành, “họ coi như là “oan gia đối đầu”, trước mặt thì rất khách khí, sau lưng thì gièm pha lẫn nhau; chẳng những họ không tôn trọng lẫn nhau, mà còn tìm cách dìm nhau. Tinh thần đoàn kết rất kém”. Nói tóm lại, Hồ Chí Minh cho rằng chủ nghĩa cá nhân là “thứ vi trùng rất độc”, là “kẻ thù của đạo đức cách mạng”, là nguồn gốc sinh ra quan liêu, cửa quyền công thần, kiêu ngạo, tham ô, lãng phí và bao điều xấu xa khác. Do vậy, trong xây dựng Đảng, nhất là trong xây dựng Đảng về đạo đức phải kiên quyết chống chủ nghĩa cá nhân.

Xây dựng Đảng bộ các trường sĩ quan Quân đội hiện nay theo tư tưởng Hồ Chí Minh - 9

Lấy gương người tốt, việc tốt để giáo dục lẫn nhau trong cán bộ, đảng viên

Hồ Chí Minh cho rằng: “Lấy gương người tốt việc tốt để hàng ngày giáo dục lẫn nhau là một trong những cách tốt nhất để xây dựng Đảng, xây dựng các tổ chức cách mạng, xây dựng con người mới, cuộc sống mới” [69, tr.672]. Để thực hiện tốt vấn đề trên, theo Hồ Chí Minh, mỗi tổ chức đảng, cán bộ, đảng viên cần phải không ngừng học tập, rèn luyện, thực hiện tốt việc “nói đi đôi với làm”. Coi việc Nói đi đôi với làm” là một phương châm, nguyên tắc chỉ đạo; là phương pháp lãnh đạo, quản lý và là phương pháp công tác của mỗi tổ chức đảng và cán bộ, đảng viên. Kiên quyết đấu tranh và nghiêm túc phê phán những cán bộ, đảng viên không dám nói, không dám làm, nói nhiều làm ít, hoặc nói mà không làm, nói một đường, làm một nẻo, thậm chí, thụ động, trông chờ, ỷ lại, sợ trách nhiệm. Phải thực hiện tự phê bình và phê bình, coi đây là vũ khí sắc bén, là động lực bên trong giúp cho mỗi cán bộ, đảng viên phát huy ưu điểm, khắc phục


khuyết điểm, không ngừng vươn lên hoàn thiện về phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống để thực sự là “tấm gương” để quần chúng nhân dân noi theo.

Như vậy, theo Hồ Chí Minh, nội dung xây dựng Đảng bao gồm các mặt chính trị, tư tưởng, tổ chức, đạo đức, trên từng mặt có nội dung cụ thể, có yêu cầu và biện pháp riêng song đó là một thể thống nhất, có mối quan hệ gắn bó mật thiết với nhau, thúc đẩy lẫn nhau cùng tạo nên sức mạnh nội lực cho Đảng. Trong đó, xây dựng Đảng về đạo đức là nền tảng, xây dựng Đảng về tư tưởng là cốt lõi, xây dựng Đảng về chính trị là quan trọng, xây dựng Đảng về tổ chức là then chốt.

2.3. GIÁ TRỊ TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ XÂY DỰNG ĐẢNG

Một là, tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng đặt nền móng cho sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam

Từ những năm 1921 - 1929, Hồ Chí Minh đã tích cực chuẩn bị các mặt về chính trị, tư tưởng và tổ chức cho việc thành lập Đảng. Về chính trị, từ những nhận thức rút ra từ thực tiễn hoạt động cách mạng, tiếp thu ánh sáng của chủ nghĩa Mác - Lênin, Hồ Chí Minh đã tìm thấy phương hướng, con đường cách mạng đúng đắn cho dân tộc Việt Nam, đó là con đường cách mạng vô sản. Người khẳng định, muốn cứu nước, giải phóng dân tộc không có con đường nào khác ngoài con đường cách mạng vô sản. Nguyễn Ái Quốc cũng nhận thấy rằng, để cách mạng đi đến thắng lợi thì “trước hết phải có đảng lãnh đạo”, đảng ấy phải có chủ nghĩa làm cốt - chủ nghĩa Mác - Lênin và trong đảng ai cũng phải hiểu, ai cũng phải theo chủ nghĩa ấy. Có thể nói, Hồ Chí Minh đã phác thảo những vấn đề cơ bản về đường lối cứu nước giải phóng dân tộc cho cách mạng Việt Nam và sau này, nó được phát triển thành những nội dung cơ bản trong cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng.

Về tư tưởng, Hồ Chí Minh đã tiến hành truyền bá chủ nghĩa Mác-Lênin vào phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam. Hồ Chí Minh cho rằng, cách mạng muốn thành công phải có đảng cách mạng chân chính lãnh đạo, Đảng phải có hệ tư tưởng tiên tiến, cách mạng và khoa học dẫn đường, đó là hệ tư tưởng Mác-Lênin. Mục đích của việc truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin vào


Việt Nam nhằm làm chuyển biến nhận thức của quần chúng, nhất là giai cấp công nhân, làm cho hệ tư tưởng Mác - Lênin dần lan tỏa trong đời sống xã hội, góp phần tạo nên những biến đổi mạnh mẽ trong phong trào yêu nước, làm cho phong trào yêu nước theo lập trường của GCCN.

Về tổ chức, Hồ Chí Minh đã mở các lớp huấn luyện, đào tạo cán bộ tại Quảng Châu - Trung Quốc. Các lớp huấn luyện cán bộ do Người tổ chức đã giúp cho những người Việt Nam yêu nước xuất thân từ các thành phần, tầng lớp khác nhau dễ tiếp thu tư tưởng cách mạng của Người. Các hoạt động của Hồ Chí Minh và của Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên vào phong trào cách mạng đã làm thay đổi tính chất cuộc đấu tranh của nhân dân chống thực dân, phong kiến. Phong trào công nhân chuyển dần từ tự phát lên tự giác. Phong trào yêu nước chuyển dần sang khuynh hướng mác-xít, rồi từ khuynh hướng mác-xít chuyển sang lập trường cộng sản.

Từ giữa năm 1929 đến đầu năm 1930, ở Việt Nam đã lần lượt xuất hiện Đông Dương Cộng sản đảng, An Nam Cộng sản đảng và Đông Dương Cộng sản liên đoàn, tuy nhiên, các tổ chức này lại tranh giành ảnh hưởng trong quần chúng, trước tình hình đó, Hồ Chí Minh đã đại diện cho Quốc tế Cộng sản triệu tập Hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản vào ngày 3-2-1930, thành lập một đảng thống nhất lấy tên là Đảng Cộng sản Việt Nam.

Hai là, tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng góp phần làm phong phú lý luận Mác - Lênin về xây dựng Đảng kiểu mới của giai cấp công nhân

Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng không chỉ kế thừa lý luận Mác

- Lênin về các nguyên tắc trong xây dựng đảng kiểu mới của GCCN, mà đặc biệt, từ những phân tích, đánh giá chính xác đặc điểm xã hội và quy luật vận động, phát triển của cách mạng Việt Nam, Hồ Chí Minh đã nêu lên nhiều luận điểm hết sức sáng tạo, phản ánh những vấn đề có tính quy luật trong xây dựng một đảng chân chính, cách mạng ở Việt Nam, qua đó góp phần bổ sung lý luận Mác - Lênin về xây dựng đảng.

Vận dụng và làm phong phú chủ nghĩa Mác - Lênin về xây dựng đội tiên phong của giai cấp công nhân ở một nước thuộc địa nửa phong kiến, công nghiệp chưa phát triển, giai cấp công nhân còn nhỏ bé, khi nói về quy luật ra đời


của Đảng Cộng sản Việt Nam, Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Chủ nghĩa Mác - Lênin kết hợp với phong trào công nhân và phong trào yêu nước đã dẫn tới việc thành lập Đảng” [65, tr.406].

Nhận rõ vai trò vô cùng to lớn của phong trào yêu nước, thấu hiểu sức mạnh truyền thống dân tộc, từ đó đưa phong trào yêu nước vào quy luật hình thành Đảng, làm cho Đảng không chỉ là đội tiên phong của GCCN mà còn là đội tiên phong, đại biểu trung thành cho lợi ích của nhân dân lao động và toàn thể dân tộc. Đó là những cống hiến to lớn, đặc sắc của Hồ Chí Minh về Đảng Cộng sản Việt Nam nói riêng và với việc thành lập Đảng Cộng sản ở các nước nông nghiệp, lạc hậu, kém phát triển trên thế giới nói chung. Xuất phát từ quy luật ra đời đó của Đảng, Hồ Chí Minh nhấn mạnh trong công tác xây dựng Đảng cần phải coi trọng việc giáo dục, củng cố lập trường chính trị tư tưởng, nhất là phải thường xuyên bồi dưỡng bản chất GCCN, rèn luyện tính tự giác, ý thức tổ chức kỷ luật cho cán bộ, đảng viên và phải ra sức giữ gìn sự đoàn kết, thống nhất trong Đảng.

Về bản chất giai cấp của Đảng, Người xác định: Đảng Cộng sản Việt Nam mang bản chất GCCN và bản chất ấy được thể hiện ở nền tảng tư tưởng của Đảng là chủ nghĩa Mác - Lênin, ở mục tiêu, lý tưởng của Đảng là ĐLDT và CNXH, ở các nguyên tắc tổ chức, sinh hoạt, ở sự trung thành với chủ nghĩa quốc tế vô sản, kiên quyết đấu tranh chống mọi biểu hiện của chủ nghĩa cơ hội hữu khuynh và “tả” khuynh. Đồng thời, Đảng Cộng sản Việt Nam cũng mang tính nhân dân và tính dân tộc sâu sắc.

Hơn thế nữa, theo Hồ Chí Minh, xây dựng Đảng không phải là “việc riêng” của tổ chức đảng, của cán bộ, đảng viên, không thể chỉ làm theo kiểu “đóng cửa bảo nhau” mà cần phải biết dựa vào dân, chừng nào dân thật sự được giám sát Đảng, kiểm tra Đảng thì chừng đó công tác xây dựng Đảng mới thật sự đem lại hiệu quả và cũng chỉ khi đó Đảng mới thật sự là đạo đức, là văn minh và tiêu biểu cho danh dự, lương tâm, trí tuệ của dân tộc. Dựa vào dân để xây dựng Đảng, lấy sự hài lòng, uy tín của nhân dân đối với Đảng làm thước đo sự vững mạnh của Đảng để từ đó không ngừng tự chỉnh đốn, tự đổi mới Đảng là kết tinh của một trí tuệ thiên tài luôn luôn suy tư, trăn trở suốt đời cùng với những nỗ lực


không mệt mỏi nhằm xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam thành một đảng thật sự chân chính, cách mạng.

Ba là, tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng góp phần xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam trở thành một Đảng chân chính, cách mạng, lãnh đạo sự nghiệp cách mạng đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác

Từ khi thành lập Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng với Trung ương Đảng Đảng đã đặc biệt quan tâm đến công tác xây dựng Đảng, trong đó tập trung củng cố, phát triển tổ chức cơ sở đảng, vận động các phong trào đấu tranh cách mạng của quần chúng, giáo dục, bồi dưỡng quần chúng ưu tú để kết nạp Đảng. Sau 15 năm thành lập, với hơn 5.000 đảng viên, do có đường lối chính trị đúng đắn và nghệ thuật chỉ đạo, tổ chức tài tình, được đông đảo đồng bào cả nước hưởng ứng và tích cực tham gia, Đảng Cộng sản Việt Nam đã lãnh đạo nhân dân tiến hành cuộc Tổng khởi nghĩa giành thắng lợi làm nên cuộc Cách mạng Tháng Tám lịch sử, lập nên Nhà nước dân chủ nhân dân đầu tiên ở Đông Nam châu Á.

Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, công tác xây dựng Đảng tiếp tục coi trọng, nhất là việc củng cố các tổ chức của Đảng, chính quyền và các đoàn thể quần chúng, xây dựng, phát triển đảng viên và lực lượng vũ trang. Năm 1947, Trung ương ra Chỉ thị thi đua xây dựng Đảng và xây dựng chi bộ tự động. Công tác tổ chức giai đoạn này vừa bảo đảm thắng lợi của cuộc chiến đấu giữa ta và địch ngày càng ác liệt trên khắp các chiến trường, vừa bảo đảm thực hiện các chủ trương chính sách lớn của Đảng và Nhà nước về nông dân, nông nghiệp và nông thôn, động viên, tập hợp sức mạnh của cả dân tộc, tranh thủ sự đồng tình ủng hộ của nhân dân thế giới, góp phần quan trọng vào chiến thắng oanh liệt của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược.

Bước vào cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, Đảng Lao động Việt Nam đứng trước những nhu cầu lịch sử mới mà trong kho tàng lý luận Mác - Lênin, cũng như trong kho tàng kinh nghiệm cách mạng Việt Nam đều chưa có sẵn. Những kinh nghiệm trong phong trào khởi nghĩa và kháng chiến chống thực dân Pháp, chưa thể đủ đáp ứng yêu cầu đánh bại một cuộc chiến tranh có quy mô lớn, hiện đại và mức độ tàn bạo gấp hàng chục lần so với chiến tranh chống thực dân cũ Pháp mà chủ nghĩa đế quốc kiểu mới Mỹ muốn áp đặt vào miền Nam


Việt Nam. Trong bối cảnh lịch sử đó, về chính trị, Đảng Cộng sản Việt Nam đã tuyệt đối trung thành với chủ nghĩa Mác - Lênin, đề ra đường lối chính trị độc lập, tự chủ và sáng tạo. Nét nổi bật và xuyên suốt trong toàn bộ đường lối ấy là Đảng luôn luôn nắm vững hai ngọn cờ: ĐLDT và CNXH, gắn liền hai mục tiêu phấn đấu: Vì ĐLDT và CNXH để động viên rộng rãi mọi lực lượng của giai cấp và của dân tộc, kết hợp chặt chẽ sức mạnh của dân tộc với sức mạnh của thời đại, tạo nên những dòng thác cách mạng “nhấn chìm lũ cướp nước và bán nước”. Đảng cũng tuyệt đối trung thành những lợi ích thiêng liêng của dân tộc, kết hợp đúng đắn với lợi ích của phong trào cách mạng thế giới.

Về tư tưởng, Đảng luôn coi trọng việc tăng cường xây dựng Đảng về tư tưởng. Trong quá trình xây dựng và phát triển, Đảng luôn coi công tác tư tưởng là nền tảng quan trọng, chi phối trong toàn bộ hoạt động của Đảng. Đặc biệt đội ngũ cán bộ, đảng viên của Đảng luôn nêu cao tinh thần đảng viên đi trước, làng nước đi sau” luôn được phát huy cao độ và trở thành hành động thiết thực. Đảng ta ngày càng xứng đáng là lực lượng lãnh đạo, bộ tham mưu chính trị, vừa là lực lượng chiến đấu, là đội quân xung kích dẫn đầu và là người tổ chức các phong trào cách mạng của quần chúng; xứng đáng là danh hiệu chiến sĩ tiên phong, đại biểu trung thành lời ích của giai cấp, của nhân dân và của dân tộc Việt Nam.

Trong xây dựng Đảng về tổ chức, Đảng luôn coi trọng xây dựng Đảng trở thành “một Đảng to lớn, mạnh mẽ, chắc chắn, trong sạch, cách mạng triệt để” [60, tr.41]. Trong 21 năm kháng chiến kháng chiến chống Mỹ cứu nước, đảng viên và TCCSĐ liên tục được phát triển, mở rộng. Trong Đảng, không có chia rẽ chính trị; không có biểu hiện suy thoái về tư tưởng, đạo đức, lối sống; chủ nghĩa cá nhân được hạn chế thấp nhất; tinh thần cộng sản và quốc tế vô sản được đề cao. Khối đoàn kết, thống nhất của Đảng được củng cố là một yếu tố quan trọng tạo nên sức mạnh to lớn của Đảng, làm nên sức mạnh vũ bão của dân tộc. Trong chiến đấu gian khổ, toàn Đảng luôn luôn vững vàng, đoàn kết chặt chẽ chung quanh Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, hình thành phong cách lãnh đạo chiến tranh rất sáng tạo và cách mạng. Thắng lợi của hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược là thành quả vĩ đại của dân tộc


Việt Nam. Thành quả vĩ đại ấy được tạo nên bởi nhiều nhân tố tạo nên sức mạnh vô địch của cách mạng Việt Nam. Trong đó, nguồn gốc, nhân tố quyết định chính là sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng - một Đảng Mác - Lênin được tổ chức xây dựng dưới ánh sáng tư tưởng Hồ Chí Minh.

Khi đất nước bước vào thời kỳ đổi mới, dù đối mặt với nhiều khó khăn, thử thách nhưng dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, đất nước đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử. Những thành tựu đem lại từ công cuộc đổi mới đất nước có nguyên nhân là trong quá trình đổi mới đổi mới, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn kết hợp chặt chẽ giữa đổi mới kinh tế với đổi mới chính trị, lấy nhiệm vụ phát triển kinh tế là trung tâm, xây dựng Đảng là then chốt.

Bốn là, tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng đang tiếp tục soi sáng cho công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, nâng cao năng lực lãnh đạo, cầm quyền của Đảng trong thời gian tới

Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng chứa đựng tính cách mạng, khoa học, sáng tạo và nhân văn. Những giá trị đó được khát quát từ thực tiễn xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam từ 91 năm qua. Thực tiễn cách mạng cho thấy, là lực lượng lãnh đạo sự nghiệp cách mạng của dân tộc, khi nào Đảng Cộng sản Việt Nam quán triệt, thực hiện nghiêm túc những chỉ dẫn quá báu của Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng thì hệ thống tổ chức của Đảng từ Trung ương đến cơ sở vững mạnh, đội ngũ cán bộ, đảng viên các cấp của Đảng luôn gương mẫu, tiên phong, được quần chúng tin yêu. Ngược lại, lúc nào Đảng xem nhẹ công tác xây dựng Đảng, xa rời những tư tưởng, quan điểm của Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng thì hệ thống tổ chức của Đảng bộc lộ những khuyết điểm, hạn chế, một bộ phận cán bộ, đảng viên của Đảng “sa vào chủ nghĩa cá nhân”, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, thậm chí “tự chuyển biến”, “tự chuyển hóa”.

Tổng kết từ thực tiễn xây dựng Đảng, Đại hội XIII của Đảng đã rút ra bài học quan trọng hàng đầu là về xây dựng, chỉnh đốn Đảng: “Công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng phải được triển khai quyết liệt, toàn diện, đồng bộ, thường xuyên, hiệu quả cả về chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức và cán bộ. Kiên định, vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh; nâng cao năng lực lãnh đạo, cầm quyền và sức chiến đấu của Đảng...” [21, tr.26-27]. Có thể

Xem tất cả 224 trang.

Ngày đăng: 17/05/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí