Đề Tài Tệ Nạn Xã Hội Trong Hiện Thực Xã Hội Đô Thị Việt Nam Trước1945


Cũng như các nhà văn thuộc khuynh hướng văn học hiện thực, tâm hồn, tình cảm và ngòi bút của Trương Tửu luôn gắn chặt với cuộc đời và con người, từ đó kết tinh lại thành những trang văn giàu chất hiện thực. Nhìn chung, các tác phẩm văn xuôi của Trương Tửu đã bao quát một hệ thống phạm vi phản ánh hiện thực khá rộng lớn. Đề tài trong văn xuôi Trương Tửu khá phong phú như đề tài tình yêu, hạnh phúc, tệ nạn xã hội hay những đề tài lịch sử. Điều này được thể hiện sinh động trong 13 tác phẩm: Thanh niên S.O.S (1937), Một chiến sĩ (1938), Khi chiếc yếm rơi xuống (1939), Trái tim nổi loạn (1940), Một cổ đôi ba tròng (1940), Tôi nguyền rủa mãi người cha ấy (1940), Khi người ta đói (1940), Đục nước béo cò (1940), Một kiếp đọa đầy (1941), Cái tôi của ai (1941), Thằng Hóm (1940), Tráng sĩ Bồ Đề (1942), Năm chàng hiệp sĩ (1942). Tất cả đều bắt rễ từ cuộc đời, từ hiện thực xã hội.‌

3.1.1. Đề tài tình yêu

Tình yêu là một trong những đề tài nổi bật của văn xuôi Trương Tửu. Trong các tác phẩm của ông, tình yêu của giới trẻ nhất là những thanh niên trí thức mang đậm dấu ấn của thời đại - một thời đại vừa có sự mâu thuẫn, tranh chấp vừa giao thoa giữa cái cũ và cái mới, giữa những tư tưởng phong kiến lạc hậu và lối sống Âu hoá hiện đại của phương Tây đang từng ngày từng giờ xâm nhập vào đời sống xã hội. Tác giả không chỉ đề cập tới tình yêu mang tính bản năng, vụ lợi mà còn khắc hoạ sinh động, sâu sắc những mối tình cao thượng đẹp đẽ, trong sáng.

Ở một số tác phẩm, Trương Tửu đã lên án tình yêu trụy lạc, lối sống buông thả, vô trách nhiệm. Trong Thanh niên S.O.S, Liêu đã nuôi trong lòng một tình cảm trong sáng với Sâm. Chàng trẻ tuổi ấy yêu một cách âm thầm với một trái tim trong sáng. “Từ khi gặp Sâm, chuyện trò cùng Sâm, Liêu chỉ còn biết thờ có một lý tưởng: TÌNH YÊU, chỉ chiêm bái có một thần tượng: ĐÀN BÀ, chỉ theo đuổi có một mục đích: LẬP GIA ĐÌNH”. Rồi trong những ngày xa người yêu, Liêu chỉ cần ngắm ảnh nàng và “tưởng tượng đến cái tổ uyên ương ấm áp mà chàng sắp gây dựng cũng đủ thấy lòng hồi hộp và rung động” [120, tr. 48]. Tình yêu của Liêu có thể đã đẹp và đi đến hạnh phúc nhưng rồi kết cục là gì? Liêu đã thay đổi về tư tưởng, về nhận thức. Chàng coi Sâm cũng chỉ là một quả quất, chàng đã “ăn cái vỏ nòn nà của quả quất chín tới ấy. Chàng nghĩ phân vân không biết bây giờ có nên


ném cái ruột quất xuống rãnh bùn?” [120, tr. 110]. Chàng đã làm cho Sâm - người mà chàng yêu tha thiết - mang thai rồi bỏ mặc nàng khiến nàng phải bỏ nhà ra đi dấn thân vào gió bụi. Bản thân thì mắc bệnh nặng khó lòng qua khỏi vì chơi bời trác táng. Trương Tửu đã chỉ rò cho người đọc thấy nguyên nhân của sự đổi thay này đến từ môi trường xã hội. Liêu làm sao có thể là một con người có chí khí, có lí tưởng khi những người bạn xung quanh Liêu toàn những người bạn chơi bời, thuần thục trong lí luận về ăn chơi và thuần thục trong cả những ngón nghề ăn chơi trụy lạc? Văn - bạn Liêu - đã “bơm” vào đầu anh ta những tư tưởng đồi bại, rằng ái tình chỉ là tình dục, chỉ là sự thỏa mãn nhục dục. Văn và những “pho tiểu thuyết diễm tình trong rừng văn Pháp, Trung Quốc và Việt Nam”, những đoạn phim trong nhà chiếu bóng khiêu dâm đã làm hỏng những nhận thức trong sáng về tình yêu của Liêu. Viết về tình yêu trong quan niệm của Liêu và giới thanh niên bạn chàng, nhà văn như cất một tiếng kêu cứu cho thứ tình cảm nhân bản nhất và cũng nhân văn nhất của con người. Với tình yêu mù quáng, Sâm đã lãnh chịu sự đau khổ đến tột cùng, có mang với người yêu nhưng bị người yêu bỏ rơi. Cô phải bỏ gia đình đi hoang và tiền đồ đang chờ đợi cô chính là kiếp giang hồ, kiếm sống bằng những việc làm nhơ nhớp. Tình yêu của thanh niên như Liêu, Sâm hay Văn không chỉ nhầm đường lạc lối mà còn bị chi phối bởi tư tưởng cổ hủ của xã hội phong kiến còn rơi rớt. Sâm không chỉ khổ vì yêu nhầm một chàng trai sống trụy lạc, không lý tưởng, không mục đích. Đời cô còn khổ bởi sự sắp đặt, cưỡng ép hôn nhân của gia đình. Nếu không có sự sắp đặt phải lấy một người mình không yêu liệu Sâm có liều mình hiến thân cho Liêu để rồi phải chuốc lấy ê chề một đời? Và khi biết mình mang thai cô cũng biết trước tương lai của mình bởi những định kiến hẹp hòi của gia đình, xã hội không chấp nhận lầm lỗi trong tình yêu. Cô sẽ bị coi như kẻ bỏ đi. Cô đã quyết định tha hương trước khi viết cho Liêu những bức thư đầy oán hờn về tình yêu mù quáng của mình và sự vụ lợi yếu hèn của Liêu.

Phần lớn các sáng tác của Trương Tửu đều có mối liên hệ chặt chẽ với dự đồ sáng tạo, với chủ đích luận đề đấu tranh xã hội, với tính tư tưởng mà tác giả suy tôn, tin tưởng. Ngay ở lời tựa cho tác phẩm Thanh niên S.O.S, nhà văn đã gióng lên một hồi chuông cảnh báo kết án “chỉ tại xã hội” khiến thanh niên sa


ngã vào tình yêu bản năng, ích kỉ, hưởng thụ thân xác. Như vậy, có thể thấy, những lời tựa, đề từ, trữ tình ngoại đề đều có có sự kết hợp chặt chẽ với toàn bộ nội dung tư tưởng tác phẩm. Đây chính là một đặc điểm quan trọng, góp phần định hướng, chi phối hầu hết các tác phẩm văn xuôi của Trương Tửu giai đoạn trước Cách mạng tháng Tám năm 1945.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 177 trang tài liệu này.

Ở tác phẩm Trái tim nổi loạn, thông qua câu chuyện tình của Thúy và Thông, Trương Tửu đã đề cập đến đề tài tình yêu ở một hoàn cảnh khác. Thúy và Thông đến với nhau bằng sự cuốn hút của ái tình, lạc thú. Tình yêu của Thông thể hiện rò sự cuồng nhiệt nhưng cũng rất chân thành. Với Thúy, ban đầu là sự cuốn hút bởi nhục dục nên cũng say mê đắm đuối với tình yêu, nhưng nàng thật sự đến với ý định hôn nhân của Thông bởi cần một sự giải thoát cho hoàn cảnh bi kịch của mình, giống như một kẻ chết đuối cần một cái cọc để bám. Hôn nhân có những toan tính, hôn nhân bất đồng về tập quán, lối sống, hôn nhân không có điểm chung là những nguyên nhân khiến cho cái gia đình hạnh phúc mà họ tạo nên sớm đổ vỡ. Tưởng rằng cuộc hôn nhân vượt lên trên cả lễ giáo gia phong, được xây dựng bằng sự say mê của ái tình sẽ có kết cục hạnh phúc viên mãn, nhưng không phải vậy. Kết thúc câu chuyện thật buồn, Thông đã dìm chết cả bản thân và người vợ sắp li dị trong cơn biển động. Trong lòng anh là cả một sự đổ nát, tâm hồn anh trống rỗng vì mất mát. Tại đâu mà hạnh phúc của họ tan vỡ khi họ đã quyết chí đến với nhau? Ngoài nhiều lý do có thể kể đến, có lẽ có cả nguyên nhân từ Thúy, một cô gái quá tân thời! Lối sống với quan niệm yêu tự do và phóng túng đến buông thả mà cô ảnh hưởng từ phương Tây sao có thể gây dựng một mái ấm hạnh phúc bình dị? Với người đàn bà này, tình yêu sôi nổi chỉ để thỏa mãn ham muốn nhất thời của cá nhân. Lối sống ích kỷ đó không hiếm gặp ở thanh niên bấy giờ.

Tác giả đã lên án lối sống buông thả, tình yêu ích kỷ chỉ nhằm thoả mãn bản năng sẽ dẫn con người đến những kết cục đầy thảm hoạ. Đây cũng là tiếng kêu cứu về lối sống sa ngã đầy bản năng dục vọng của những thanh niên trí thức đương thời.

Văn xuôi Trương Tửu trong tiến trình văn học Việt Nam đầu thế kỷ XX - 10

Trương Tửu không giới hạn về hướng phát triển của một đề tài. Đề tài tình yêu còn được thể hiện khá linh hoạt, khai thác ở nhiều góc cạnh, nhiều chiều trong các tác phẩm văn xuôi của ông. Nhà văn đã không ngớt lời ca ngợi tình yêu đẹp, tình


yêu đồng nghĩa với hy sinh, với khát vọng bình dị và cao thượng. Đó là tình yêu giữa Như Lan và Hiền (Một chiến sĩ); tình yêu giữa những con người nghèo khổ như Thiện và Mỹ (Khi người ta đói) hay tình yêu cao thượng của Huấn và Nguyệt Minh (Tôi nguyền rủa mãi người cha ấy)… Như Lan và Hiền trong Một chiến sĩ là những thanh niên đáng yêu, đáng trân trọng. Tình yêu của họ đẹp một cách nồng nàn và trong sáng. Điều đáng khâm phục là họ biết đấu tranh để từ bỏ những ham muốn cá nhân, tôn thờ những cái thiêng liêng. Nghĩa vụ của một chàng trai trong thời loạn là biết hy sinh hạnh phúc của mình để nghĩ đến hạnh phúc cho mọi người. Còn Như Lan, vốn là một cô gái yếu đuối, yêu tha thiết nhưng cô đã nhận ra, thấu hiểu và cảm thông cho những lý tưởng của người yêu dù cô vô cùng đau đớn khi phải chấp nhận hy sinh. Như Lan đã để Hiền đi trên con đường anh chọn. Cô không níu kéo người yêu cho riêng mình khiến người yêu phải vướng bận mà cao thượng chọn một lối đi bên cạnh để chờ đợi lặng thầm, hi vọng làm động lực cho người yêu hoàn thành chí hướng.

Trong tác phẩm Khi người ta đói, Trương Tửu lại đặt tình yêu vào một thử thách không kém phần khốc liệt của cuộc sống, đó là nạn đói. Thiện thất nghiệp. Anh lương thiện, có bàn tay khối óc nhưng không tìm được việc làm. Anh đói đến thảm thương. Thiện còn không cứu nổi mình trong cơn đói khát. Ngồi bên những câu nói êm dịu của người yêu mà Thiện đói lả, Mỹ - người yêu của anh phải mua vội bát phở để cứu anh khỏi cơn đói điêu linh. Vậy mà trên vai anh còn người mẹ già bệnh tật, một cô em gái yếu đuối. Cả gia đình đói kém, họ không chỉ quay cuồng với tiền rau cháo qua bữa, đoạn ngày mà họ còn khốn khổ vì bị ám ảnh ghê gớm với tiền thuê nhà không có trả. Thiện chỉ còn cái áo ba-đờ-suy cho em đi cầm, nhưng cái áo cũ sờn đó không được nổi một xu. Vậy mà nổi trên cái nền xám ngắt của đói nghèo và những số phận bất hạnh, nổi lên trong cái xã hội tôn thờ kim tiền ấy, anh đã có một tình yêu rất đẹp, nồng thắm. Mỹ đã dành cho anh một tình yêu trong sáng vô ngần. Mỹ chia sẻ với người yêu qua cơn đói kém bằng tấm lòng trân trọng, bao dung. Cô yêu anh bằng tất cả sự chân thành. Cô thương xót người yêu bị cảnh bần hàn ghì sát đất. Mỹ không chỉ chia sẻ về vật chất, cô luôn bên Thiện để chàng trai đang phẫn chí vì đói nghèo đó không sa ngã. Và ngay cả khi Thiện phải vào tù tội,


người yêu anh đã vượt qua sự ngăn trở của bà dì ghẻ, bước qua cả những đàm tiếu của người đời để đến ở cùng và thay anh phụng dưỡng mẹ già. Rò ràng, trong cơn bĩ cực của cuộc đời, tình yêu của Mỹ giống như những tia nắng toả hơi ấm thắp sáng cho cuộc đời đầy giông bão quay cuộc với mưu sinh, với cơm, áo, gạo, tiền mà Thiện đang phải chống trọi. Với người lao động tình yêu khiến cho họ vơi đi những nhọc nhằn, khổ sở của cuộc sống hiện tại như trong Thằng Hóm. Thằng Hóm tuy tận cùng khổ cực nhưng ở nó vẫn có những khát khao về cuộc sống và tình yêu. Đó là những đoạn truyện Trương Tửu viết về tình cảm trong trẻo, đời thường của Hóm và Tún: “Hóm yên lặng nhìn Tún. Nó thích Tún quá, yêu Tún quá vì nó thấy Tún cũng thích nó, cũng yêu nó… Hóm ôm chầm lấy Tún, hôn đánh chụt một cái vào má, Tún đẩy ra kêu khẽ… Ở trên nhà biết thì chết bây giờ! Hóm mỉm cười, lại chạy ra sân rửa nốt bát đĩa. Tay thì rửa bát, mắt thì nhìn Tún chằm chằm. Còn Tún thì quay mặt vào bếp. Trống ngực cô đập thình thịch. Cô thấy trong đời cô chưa có phút nào cô được sung sướng như phút này… Đêm ấy, Hóm trằn trọc mãi không ngủ được. Nó vẫn còn thấy cái dư vị êm đềm của mối tình chớm nở. Trong mười bảy mười tám năm trời cả trái tim lẫn xác thịt nó đều bị đè ép dưới sức uy trị của đói rét. Bây giờ, được đủ điều kiện để tự giải phóng, cả hai cái ấy đều bùng dậy…”[124, tr. 1012-1014]. Tình yêu của đôi trẻ Hóm- Tún cho ta cảm nhận thế giới của những người nghèo cũng đầy tình yêu thương khiến người ta cảm động.

Người đọc cũng trân trọng tình yêu trong sáng của Huấn và Nguyệt Minh trong Tôi nguyền rủa mãi người cha ấy. Đó là một mối tình đẹp bởi chính họ đã xác định giữ gìn một tình yêu trong khiết, nguyên vẹn không nhục dục, không vụ lợi đê hèn. Khác với Liêu ở Thanh niên S.O.S, Huấn trong Tôi nguyền rủa mãi người cha ấy đã “giữ giá” cho người yêu, không bao giờ đi quá giới hạn. Anh bộc bạch: Tôi muốn người yêu tôi giữ được nguyên giá cho đến lúc làm vợ tôi. Mà xưa nay tôi vẫn thường ghê sự sa ngã về nhục dục do sự gần nhau sinh ra[120, tr. 379]. Vậy mà đôi trai gái ấy cũng khó có hạnh phúc trong tình yêu. Họ đã va phải bức tường cổ hủ hà khắc từ người cha tàn nhẫn, độc đoán của Nguyệt Minh. Bị ngăn cấm tình yêu, Nguyệt Minh đã tìm đến với người yêu nhưng bị cha bắt được. Người cha ấy hành hạ nàng đến tật nguyền. “Nguyệt Minh có đôi mắt bồ câu, nước da trắng mịn


của tôi! Nàng Nguyệt Minh ấy bây giờ chột một mắt và có hai ba vết sẹo sâu hoắm ở hai bên má…[120, tr. 389]. Đó là chứng tích đau đớn mà người cha thô bạo vũ phu đã ghi dấu lên hình hài con gái mình. Tình yêu của đôi trái gái này không nhuốm màu sắc dục, được giữ gìn trọn vẹn, trong sáng nhưng rào cản của những tập tục cổ hủ vẫn đeo bám khiến cho người yêu của Huấn đã không còn lành lặn. Cô bị tổn thương cả về thể xác và tâm hồn. Cô gái xinh đẹp đã bị tật nguyền vì những trận đòn kinh hoàng của người cha vũ phu, tàn nhẫn. Gặp lại Nguyệt Minh trong tình cảnh đó, Huấn vẫn xin cưới cô gái đáng thương ấy về làm vợ. Bởi tình yêu của họ đồng nghĩa với tình thương cao thượng.

Đề tài tình yêu cũng được đề cập đến khá đậm nét trong những trang tiểu thuyết dã sử. Tình yêu trong sáng của tráng sĩ Bồ Đề và Tú Lan (Tráng sĩ Bồ Đề) hay tình yêu lặng thầm của Việt Liễu, của Kim Sơn với ni cô Thanh Tuyền (Năm chàng hiệp sĩ). Trong tiểu thuyết Tráng sĩ Bồ Đề, mặc dù sự thất bại của đảng Từ Bi khiến người đọc hụt hẫng thì một kết thúc có hậu cho tình yêu của người tráng sĩ lại khiến chúng ta hài lòng, mãn nguyện. Đó là điểm sáng của tác phẩm. Tình yêu trong những trang tiểu thuyết dã sử của Trương Tửu cũng nồng nàn khát vọng yêu và được yêu. Nhân vật Việt Liễu, một cô gái trong sáng, ngây thơ và yếu đuối đã yêu lặng thầm nhưng mãnh liệt người anh được cha mẹ cô nhận làm con nuôi. Tình cảm ấy đến tự nhiên. Một tình yêu sâu đậm nhưng lặng thầm nhưng không được đáp lại khiến cô gái thanh xuân ấy trở nên tiều tụy, mỏi mòn. Cô lâm vào tâm bệnh không thể cứu vãn. Cuối cùng cô gái đáng thương ấy cũng được mãn nguyện khi bước sang thế giới khác trong vòng tay người cô yêu thương.

Về đề tài tình yêu, những cây bút văn xuôi hiện thực và lãng mạn đương thời cũng đã tập trung phản ánh ở nhiều góc độ khác nhau. Cũng thời điểm xuất hiện với những tác phẩm của Trương Tửu, có thể kể đến Làm đĩ của Vũ Trọng Phụng, Người đàn bà trần truồng của Nguyễn Vỹ. Trương Tửu khai thác mảng đề tài này không phải là mới, bởi tình yêu tồn tại trong đời sống sinh hoạt không biết từ bao giờ, có biết bao câu chuyện tình yêu trong văn học dân gian, đề tài tình yêu diễn tiến trong suốt quá trình lịch sử văn học. Và trước Trương Tửu, trước các nhà văn hiện thực nhóm Tự lực văn đoàn khá thành công trong việc


triển khai đề tài tình yêu vào các sáng tác trong những năm ba mươi của thế kỷ

XX. Các nhà văn Tự lực văn đoàn thông qua tác phẩm, qua nhân vật đã gửi gắm mong muốn về quyền tự do trong tình yêu, hôn nhân, thể hiện quan điểm bênh vực người phụ nữ. Tác phẩm Hồn bướm mơ tiên của Khái Hưng nhà văn đã khai thác đề tài tình yêu thật thơ mộng, lãng mạn. Tình yêu giữa Ngọc và Lan trong sáng, lãng mạn, mặc dù tình yêu ấy vướng phải rào cản tôn giáo, họ không tiến tới hôn nhân nhưng tình yêu của họ diễn ra rất say đắm, mãnh liệt. Nhà văn đã đề cao tình yêu tự do, tác giả để cho tình yêu lên tiếng, tình yêu bật lên tiếng nói riêng trong chính tâm hồn của nhân vật. Trái ngược với hạnh phúc, say nồng của hương vị ngọt ngào mà tình yêu thuần khiết ban tặng, trong Đời mưa gió của Khái Hưng và Nhất Linh với nhân vật Tuyết vượt lên tất cả mọi lễ nghi, cô tìm đến tình yêu là đến với khao khát của nhục dục, của khoái cảm xác thịt. Cô gái này đã bị ép duyên và vì không yêu chồng cô đã đi theo tiếng gọi của ái tình và cuối cùng sa vào đời mưa gió, nhưng với con người Tuyết cô thấy mình phù hợp với những chốn ăn chơi sa đọa. Cô trở thành ả giang hồ không phải để kiếm sống mà theo Tuyết đến với cuộc sống đó mới kiếm tìm được những mê li của xác thịt trong hoàn cảnh dễ dàng đổi thay tình ái. Từ trong suy nghĩ Tuyết có quan niệm sống sa đọa, cô coi gia đình là nơi lưu trú tạm thời khi chạy theo tình ái mệt mỏi. Tuyết hưởng lạc ái tình với nhiều nhân tình, cô giải phóng bản thân trong lối sống buông thả. Như vậy, Tuyết đã bị tha hóa, cô có tâm lý hoàn toàn khác với đa số phụ nữ Việt Nam truyền thống luôn mong muốn gặp được và có được tình yêu chung thủy, bền chặt. Miêu tả về nhân vật tha hóa trong xã hội đương thời, khác với giai đoạn đầu, sau này các nhà văn Tự lực văn đoàn đã có điểm tương đồng với Trương Tửu ở nhân vật Tuyết người đọc thấy có nét của Liêu, Văn về cách quan niệm tình yêu, hạnh phúc.

Có thể nói, trong đề tài tình yêu, so với một số cây bút thời đó thì Trương Tửu không thực sự nổi bật, nhưng ông đã biết tìm ra một góc độ riêng trong việc phản ánh xã hội. Trong văn xuôi của Trương Tửu, người ta bắt gặp một hiện trạng báo động đỏ trong giới trẻ, đó là lối sống. Đề tài tình yêu đã thể hiện được phần nào sự cảnh báo này. Những con người trẻ tuổi trong sáng tác của Trương


Tửu luôn khao khát yêu thương nhưng họ không có được hạnh phúc trọn vẹn. Tình yêu, khát khao hạnh phúc gia đình luôn bị chi phối bởi chính xã hội đang rối ren, hỗn độn, bát nháo.‌

Tình yêu luôn gặp những trắc trở, bất hạnh đến từ nhiều phía. Phần lớn thanh niên không tìm thấy được hạnh phúc từ tình yêu và hôn nhân mà trở thành nạn nhân của xã hội. Hoặc họ chịu ảnh hưởng bởi đạo đức suy đồi, bởi những dục vọng thấp hèn như những cơn lốc từ phương Tây tràn đến với sức tàn phá ghê gớm. Hoặc họ va phải những bức tường phong kiến hủ lậu dù đang “tróc vôi, lở gạch” những vẫn còn tồn tại khá vững chắc trong lòng xã hội khó lòng đạp đổ. Viết về tình yêu dường như nhà văn đã trút tất cả bút lực để thể hiện thật sinh động cái muôn hình vạn trạng của tình yêu trong một xã hội rối ren. Những tác phẩm của ông không chỉ phản ánh thực tại mà còn thể hiện sự cảm thông. Ông muốn dùng tiếng nói của văn nghệ để cảm hóa thế hệ thanh niên đương thời hãy biết nâng niu tình yêu trước những dục vọng thấp hèn.

3.1.2. Đề tài tệ nạn xã hội trong hiện thực xã hội đô thị Việt Nam trước1945

Những năm đầu thế kỷ XX, xã hội Việt Nam đầy những biến động phức tạp. Những thay đổi nhận thức của xã hội về cả những phạm trù đạo đức, những ảnh hưởng nhiều chiều của văn hóa phương Tây, sự sa sút về kinh tế hay cả những biến động phức tạp về chính trị đã làm biến đổi xã hội Việt Nam. Một trong những sản phẩm dù không muốn vẫn được sinh ra trong xã hội ấy là những hiện tượng trụy lạc của thanh niên, mà căn nguyên xô đẩy họ chính là xã hội. Thanh niên mất hết tự chủ, họ không thể đứng vững trước dòng lũ hỗn độn và đồi bại của những tệ nạn xã hội. Và bằng nhận định tinh tường của một đôi mắt ưu tư trước thời cuộc, Trương Tửu đã nhập cuộc với các cây bút đương thời khi phản ánh những tệ nạn xã hội trong xã hội đô thị với mục đích tranh đấu để thanh lọc xã hội đương thời. Quan niệm chung về tệ nạn xã hội: Đó là các hiện tượng xã hội bao gồm những hành vi sai lệch với chuẩn mực xã hội,vi phạm đạo đức và pháp luật, gây hậu quả xấu về mọi mặt đối với đời sống xã hội.

Không chỉ Trương Tửu quan tâm khai thác đề tài này mà còn có một số nhà văn nổi tiếng cùng thời như Nguyễn Công Hoan, và nhất là nhà văn Vũ Trọng

Xem tất cả 177 trang.

Ngày đăng: 20/07/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí