Ứng dụng thương mại điện tử trong hoạt động xúc tiến xuất khẩu tại công ty trách nhiệm hữu hạnh Mây tre xuất khẩu Chúc Sơn - 2

chức xúc tiến thương mại quốc tế như ITC, JETRO, KOTRA, TDB, CETRA,… Dự án hỗ trợ xúc tiến thương mại và phát triển xuất khẩu do Cục xúc tiến thương mại Việt Nam và ITC/UNCTAD/WTO chủ trì thực hiện đang xúc tiến mạnh mẽ cách tiếp cận mới về xúc tiến thương mại tới các nhà quản lý và các doanh nghiệp Việt Nam.

1.2. Khái niệm về xúc tiến xuất khẩu và marketing xuất khẩu


1.2.1. Khái niệm về xúc tiến xuất khẩu


Dưới góc độ kinh doanh quốc tế, xúc tiến thương mại bao gồm: xúc tiến xuất khẩu, xúc tiến nhập khẩu, xúc tiến thương mại nội địa. Do đó, có thể thấy xúc tiến xuất khẩu là một bộ phận của hoạt động xúc tiến thương mại. Nhưng trên thực tế, vào những thời kỳ nhất định, trong những không gian nhất định và trong những môi trường kinh doanh cụ thể, người ta có thể đồng nhất hoạt động xúc tiến xuất khẩu với hoạt động xúc tiến thương mại. Trong hoạt động giao thương, trao đổi thương mại giữa các quốc gia thì việc thực hiện hoạt động xúc tiến thương mại, xúc tiến xuất khẩu hay xúc tiến nhập khẩu chỉ nhằm một mục đích là làm tăng khối lượng và giá trị trao đổi thương mại giữa các nước nói riêng và trao đổi thương mại thế giới nói chung.

Đối với những nước đang và chậm phát triển (trong đó có Việt Nam) xuất khẩu có vị trị vô cùng quan trọng đối với sự tăng trưởng kinh tế trong giai đoạn hiện nay. Vì vậy, các nước này luôn chú trọng tới việc xây dựng, triển khai và thực hiện các chiến lược xuất khẩu quốc gia đồng thời coi đó là nội dung chính của hoạt động xúc tiến thương mại. Do đó, việc dùng xúc tiến xuất khẩu thay cho xúc tiến thương mại là nhằm nhấn mạnh tới tầm quan trọng đặc biệt của xuất khẩu nói chung, hoạt động xúc tiến xuất khẩu nói riêng.

Xúc tiến thương mại ở Việt Nam hiện nay trọng tâm là xúc tiến xuất khẩu. Tiếp cận xúc tiến xuất khẩu theo nghĩa rộng là cách tiếp cận phù hợp nhất để định hướng cho hoạt động xúc tiến xuất khẩu ở nước ta.

Hiện nay trên thế giới có nhiều định nghĩa về xúc tiến xuất khẩu, định nghĩa trung dung không nhắc tới chủ thể của xúc tiến xuất khẩu như sau: “Xúc tiến xuất khẩu là các hoạt động được thiết kế để tăng xuất khẩu của một đất nước hay một doanh nghiệp”. Định nghĩa mang tính tổng quát: “Xúc tiến xuất khẩu là chiến lược phát triển kinh tế nhấn mạnh đến việc mở rộng xuất khẩu thông qua các biện pháp chính sách khuyến khích, hỗ trợ cao nhất cho hoạt động xuất khẩu”. ở tầm quản lý vĩ mô, định nghĩa của Rosson & Seringhaus như sau: “Xúc tiến xuất khẩu của Chính phủ là những biện pháp chính sách của Nhà nước có tác động trực tiếp hay gían tiếp khuyến khích hoạt động xuất khẩu của các doanh nghiệp, của các ngành và của đất nước”. Tất cả các định nghĩa này đều thống nhất rằng mục đích của xúc tiến xuất khẩu là nhằm đẩy mạnh xuất khẩu. Tất cả các hoạt động có tác động khuyến khích, thúc đẩy xuất khẩu dù là gián tiếp hay trực tiếp, dù là trước mắt hay lâu dài, đều được coi là hoạt động xúc tiến xuất khẩu. Dựa trên các định nghĩa này, có thể nói hoạt động xúc tiến xuất khẩu không thể tách rời hoạt động xuất khẩu và nội dung, phạm vi của xúc tiến xuất khẩu rộng lớn hơn nhiều so với xúc tiến bán hàng chỉ là một trong bốn “P” của Maketing xuất khẩu.

Trọng tâm hoạt động xúc tiến thương mại hiện nay ở Việt Nam là xúc tiến xuất khẩu. Hoạt động này bao trùm lên hoạt động marketing xuất khẩu và nhằm mục đích đẩy mạnh xuất khẩu của nước nhà. Việc nghiên cứu xúc tiến xuất khẩu ở Việt Nam phải đi liền với việc nghiên cứu phân tích hoạt động xuất khẩu của đất nước.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 110 trang tài liệu này.

1.2.1. Khái niệm về marketing xuất khẩu


Ứng dụng thương mại điện tử trong hoạt động xúc tiến xuất khẩu tại công ty trách nhiệm hữu hạnh Mây tre xuất khẩu Chúc Sơn - 2

Nội dung cơ bản của marketing hiện đại là nghiên cứu, xác định nhu cầu hiện tại, phát hiện nhu cầu tiềm năng của thị trường. Điều chỉnh dòng hàng hoá và dịch vụ lưu thông thuận lợi nhất, đạt hiệu quả cao nhất từ nhà sản xuất tới người tiêu thụ nhằm thoả mãn các nhu cầu đó. Đó là các chính sách về sản phẩm, giá cả, kênh phân phối và xúc tiến bán hàng hay còn được gọi là chiến lược và chính sách marketing hỗn hợp.

Theo giáo trình marketing xuất khẩu của ITC “Marketing là hàng loạt các hoạt động quản lý nhằm xác định các cơ hội bán hàng và những nỗ lực để tận dụng tối đa các cơ hội đó thông qua việc giám sát hay tác động vào các nhân tố khác nhau liên quan tới sự di chuyển của dòng hàng hóa dịch vụ từ người sản xuất đến người tiêu thụ hay người sử dụng”.1 Nói cách khác, marketing là những nỗ lực nhằm cung cấp cho người tiêu thụ đúng sản phẩm mà họ cần vào đúng thời điểm, ở đúng nơi mà họ cần với đúng mức giá mà họ chấp nhận. . Trong cuốn từ điển chuyên ngành, ITC giải thích marketing theo nghĩa hẹp đồng nghĩa với quảng cáo, marketing xuất khẩu, quản lý marketing, nghiên cứu marketing, quan hệ với công chúng hay xúc tiến bán hàng. Marketing xuất khẩu có quan hệ trực tiếp với luật thương mại, lĩnh vực phân phối, kênh phân phối, giá cả, phát triển sản phẩm, hội chợ thương mại. Marketing xuất khẩu là một bộ phận trong tổng thể hoạt động marketing và là một khả năng chiến lược trong marketing quốc tế của một tổ chức hay một doanh nghiệp.

* Mối tương quan giữa xúc tiến xuất khẩu và marketing xuất khẩu


Theo như từ điển chuyên ngành của ITC, marketing xuất khẩu có thể được coi là một bộ phận của hoạt động xúc tiến xuất khẩu theo nghĩa rộng, hay đồng nhất với xúc tiến xuất khẩu, hay bao hàm xúc tiến xuất khẩu trong trường hợp quan niệm xúc tiến xuất khẩu là một bộ phận của hoạt động marketing hỗn hợp.

Trong điều kiện Viêt Nam hiện nay, quan niệm xúc tiến xuất khẩu theo nghĩa rộng được củng cố và ngày càng trở nên phổ biến. Quan niệm này phù hợp với những thay đổi của môi trường kinh doanh và yêu cầu đẩy mạnh xuất khẩu của đất nước. Việc tiếp cận marketing xuất khẩu là hoạt động xúc tiến xuất khẩu ở doanh nghiệp, bộ phận xúc tiến xuất khẩu chung là thích hợp nhất.

2. Vị trí, vai trò của hoạt động xúc tiến xuất khẩu


2.1. Vị trí của hoạt động xúc tiến xuất khẩu


Xúc tiến xuất khẩu giữ vị trí quan trọng trong việc thực hiện mục tiêu đẩy mạnh xuất khẩu, thúc đẩy phát triển kinh tế – xã hội đất nước.

Xúc tiến xuất khẩu có chức năng cơ bản là khuyến khích, thúc đẩy xuất khẩu. Do vậy, hoạt động xúc tiến xuất khẩu có vị trí quan trọng như thế nào là tuỳ thuộc vào nhu cầu và yêu cầu cần đạt được của một quốc gia hay một doanh nghiệp đối với các mục tiêu xuất khẩu. Xúc tiến xuất khẩu sẽ có vị trí đặc biệt quan trọng đối với một đất nước vào thời kỳ mà nước đó chủ trương phát triển kinh tế hướng ngoại. Nói cách khác, nước đó muốn thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá theo định hướng xuất khẩu. Trong giai đoạn phát triển hiện nay của Việt Nam, vị trí quan trọng của hoạt động xúc tiến xuất khẩu là điều không phải bàn cãi. Do tầm quan trọng của hoạt động xúc tiến xuất khẩu trong việc thực hiện chiến lược công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, nên nhà nước ta đã có những quy định cơ bản điều chỉnh hoạt động này.

Xúc tiến xuất khẩu giữ vị trí mở đường cho một doanh nghiệp tham gia thị trường quốc tế, đồng thời là một trong những hoạt động kinh tế trọng yếu của doanh nghiệp hiện đại ngày nay.

Hoạt động xúc tiến xuất khẩu ở một doanh nghiệp chính là hoạt động marketing xuất khẩu của doanh nghiệp. Đó là các hoạt động mà một doanh nghiệp cần phải tiến hành khi muốn thâm nhập thị trường quốc tế.

2.2. Vai trò của hoạt động xúc tiến xuất khẩu


Hoạt động xúc tiến xuất khẩu giữ vai trò là động lực thúc đẩy phát triển kinh tế

– xã hội đất nước. Xúc tiến xuất khẩu hiện đại, với những nội dung hoạt động mới (nhất là việc xây dựng và thực hiện chiến lược xuất khẩu quốc gia, các chiến lược xuất khẩu ngành) sẽ tạo ra những động lực và những nhân tố mới thúc đẩy xuất khẩu trong môi trường kinh doanh quốc tế ngày càng trở nên cạnh tranh khốc liệt.

Theo ngài Tamaichi Matsumoto, cố vấn phát triển thương mại của JETRO Hà Nội, xúc tiến xuất khẩu có thể đóng vai trò lực đẩy của nền kinh tế quốc dân.

Việc thực hiện xúc tiến xuất khẩu thúc đẩy xuất khẩu sẽ tác động làm chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tạo ra nhiều việc làm mới và gúp phần cải thiện thu nhập cho người lao động. Mặt khác, khuyến khích xuất khẩu sẽ tạo nguồn thu ngoại tệ lớn hơn để đáp ứng nhu cầu ngoại tệ cho mua sắm máy móc thiết bị, nhập khẩu các sản phẩm trung gian phục vụ nhu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Đồng thời đây là nguồn để trả nợ nước ngoài, giúp cân bằng và lành mạnh cán cân thanh toán quốc tế, ổn định tình hình kinh tế, tạo môi trường thuận lợi cho phát triển. Xúc tiến xuất khẩu giúp cho doanh nghiệp tham gia xuất khẩu thành công, đảm bảo hiệu quả hoạt động xuất khẩu và góp phần nâng cao khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp ở cả thị trường trong nước và quốc tế.

Tham gia xuất khẩu là mong muốn của nhiều doanh nghiệp. Trước hết, xuất khẩu tạo ra các cơ hội cho doanh nghiệp đạt được quy mô kinh tế cần thiết, do đó mà tiết kiệm được chi phí, đảm bảo hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh ở cả thị trường nội địa và xuất khẩu. Thứ hai, thông qua xuất khẩu doanh nghiệp thực hiện việc đa dạng hoá thị trường, đảm bảo sự phát triển ổn định, tránh những rủi ro có thể phát sinh khi bị phụ thuộc quá mức vào một thị trường. Thứ ba, tham gia xuất khẩu, doanh nghiệp sẽ cọ xát trong môi trường cạnh tranh khốc liệt, trở nên dễ thích ứng hơn với các đặc điểm văn hoá và cấu trúc của thị trường để có thể cạnh tranh thắng lợi. Cuối cùng, xuất khẩu là một trong những khả năng chiến lược marketing quốc tế, từ xuất khẩu sẽ mở ra các khả năng chiến lược khác như đầu tư, liên doanh… để doanh nghiệp tồn tại và phát triển.

3. Các hình thức xúc tiến xuất khẩu


Khi tiến hành xúc tiến xuất khẩu, các doanh nghiệp thường sử dụng các phương thức xúc tiến xuất khẩu sau:

3.1. Quảng cáo


Theo giáo trình Marketing lý thuyết của Đại học Ngoại thương thì khái niệm về quảng cáo như sau:

“Quảng cáo là bất cứ loại hình nào của sự hiện diện không trực tiếp của hàng hoá, dịch vụ hay tư tưởng hành động mà người ta phải trả tiền để nhận biết người quảng cáo”.

hay “Quảng cáo là quá trình truyền tin có định hướng tới người mua để kích thích họ dẫn đến hành động mua những sản phẩm và dịch vụ mà quảng cáo đó giới thiệu và đề xuất”.

Nội dung chủ yếu của quảng cáo cho một mặt hàng là:


- Về phẩm chất hàng hoá.


- Về công dụng, hiệu quả hay lợi ích của việc dùng hàng hoá đó.


- Về phương pháp sử dụng hàng hoá đó.


- Về đặc điểm của hàng hoá.


- Về điều kiện mua bán và giá cả.


- Về địa điểm bán, hoặc nơi trưng bày triển lãm.


- Về địa chỉ của đơn vị xuất nhập khẩu hoặc cơ quan đại diện cho đơn vị đó.


- Cách thức gửi đơn đặt hàng.


Tuỳ theo tình hình và đặc điểm cụ thể của từng mặt hàng của từng thị trường tiêu thụ và tuỳ theo khả năng quảng cáo của mình mà quyết định lựa chọn hình thức, phương tiện, phương pháp quảng cáo nào cho thích hợp nhất, hiệu quả nhất. Người ta thường dùng các phương tiện sau để quảng cáo xuất khẩu: Quảng cáo trên truyền hình; quảng cáo trên đài phát thanh; quảng cáo trên internet; quảng cáo trên báo chí; quảng cáo trên tạp chí; quảng cáo trên các catalogue, các tờ rơi, lịch quảng cáo;...

3.2. Tham gia hội chợ triển lãm


Hội chợ là thị trường hoạt động định kỳ, được tổ chức vào một thời gian và ở vào một địa điểm cố định trong một thời hạn nhất định, tại đó người ta đem trưng bày hàng hoá của mình và tiếp xúc với người mua để ký kết hợp đồng mua bán.

Triển lãm là việc trưng bày giới thiệu những thành tựu của một nền kinh tế hoặc của một ngành kinh tế, văn hóa, khoa học, kỹ thuật,…

Việc gửi hàng trưng bày trong các cuộc hội chợ triển lãm quốc tế hoặc chủ động tổ chức triển lãm, trưng bày hàng ở trong hoặc ngoài nước rõ ràng là một hình thức tuyên truyền quảng cáo hàng hóa hiện đại, quy mô lớn và thường thu được kết quả tốt. Nó thu hút được sự chú ý của nhiều người trong giới kinh doanh công thương nghiệp. Hình thức này rất thích hợp với những mặt hàng khó biến chất và để thu được kết quả tốt, việc chuẩn bị về mọi mặt phải hết sức tỉ mỉ, toàn diện và chu đáo.

3.3. Đi khảo sát, mở rộng thị trường xuất khẩu


Thực hiện xúc tiến xuất khẩu bằng phương thức này có thể thông qua hai cách: tổ chức cho các doanh nghiệp đi khảo sát thị trường nước ngoài hoặc tổ chức cho các doanh nghiệp tiếp xúc với các đoàn doanh nghiệp nước ngoài đến Việt Nam.

Trong thời gian qua, phương thức xúc tiến xuất khẩu này đó được các doanh nghiệp Việt nam áp dụng khá phổ biến bởi tính hiệu quả của nó. Các doanh nghiệp có cơ hội nắm bắt một cách cụ thể các thông tin về thị trường của sản phẩm. Tuy nhiên, chi phí cao là trở ngại lớn nhất của việc áp dụng phương thức này.

3.4. Ứng dụng thương mại điện tử


Đây là phương thức xúc tiến thương mại hiện đại, phù hợp với xu thế phát triển chung của thế giới. Hiện nay, phương thức này đã áp dụng phổ biến ở các nước phát triển nơi có cơ sở hạ tầng công nghệ thông tin hiện đại. Tuy nhiên, ở Việt Nam nhiều doanh nghiệp vẫn còn xa lạ với phương thức xúc tiến mới mẻ này.

Khi ứng dụng thương mại điện tử để xúc tiến xuất khẩu thì cần phải thực hiện những công việc sau:

- Lập ngân hàng thông tin phục vụ xuất khẩu.

- Thu thập thông tin về các doanh nghiệp trên địa bàn để cung cấp cho các tổ chức xúc tiến thương mại và nhằm mục đích giới thiệu và quảng bá hình ảnh của doanh nghiệp, qua đó tìm kiếm đối tác kinh doanh.‌

- Dựa trên cơ sở dữ liệu sẵn có sau đó tiến hành xử lý để đưa thông tin lên trang Web và phát hành danh bạ doanh nghiệp và lĩnh vực hàng.

II. CÁC VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ TMĐT


1. Thương mại điện tử


1.1. Khái niệm về TMĐT theo nghĩa hẹp và nghĩa rộng


Ngày nay, không ai có thể phủ nhận sự ảnh hưởng sâu sắc của công nghệ thông tin và dịch vụ thông tin liên lạc đến nền kinh tế của các quốc gia trên thế giới. Và công nghệ thông tin đã trở thành một yếu tố không thể thiếu để nâng cao hiệu quả, nâng cao sức cạnh tranh và lợi nhuận cho các nghành công nghiệp sản xuất, y tế, giải trí, du lịch… Cũng chính nhờ sự phát triển mạnh mẽ của công nghệ thông tin mà dựa trên cơ sở đó, thương mại điện tử đã ra đời như một hệ quả tất yếu của sự phát triển đó.

Thương mại điện tử từ khi ra đời đến nay có nhiều tên gọi khác nhau như: online trade, cyber trade, electronic business, paperless commerce (trade), electronic commerce, e- commerce,...

* Khái niệm TMĐT theo nghĩa hẹp


“TMĐT là việc mua bán hàng hoá và dịch vụ thông qua các phương tiện điện tử, nhất là internet và các mạng viễn thông khác”.

Cách hiểu này tương tự với một số các quan điểm vào cuối thập kỷ 90s:


- TMĐT là các giao dịch thương mại về hàng hoá và dịch vụ được thực hiện thông qua các phương tiện điện tử (Diễn đàn đối thoại xuyên Đại Tây Dương, 1997)

- TMĐT là việc thực hiện các giao dịch kinh doanh có dẫn tới việc chuyển giao giá trị thông qua các mạng viễn thông (EITO, 1997).

Xem tất cả 110 trang.

Ngày đăng: 03/01/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí