Từ đường họ Võ Uy | làng Phúc Lai, xã Định Hòa, huyện Yên Định | Di tích LS-VH | Còn nguyên vẹn | Cấp Tỉnh | |
27 | Đền Lai (thờ Lê Lợi) | Xã Minh Sơn, huyện Ngọc Lặc | Di tích LS-VH | Mới tôn tạo | Cấp Tỉnh |
28 | Đền Tiên Púa | Xã Giao Thiện, huyện Lang Chánh | Di tích LS-VH | Mới tôn tạo | Cấp Tỉnh |
29 | Đền thờ Lê Lợi | Làng Bóng, xã Kiên Thọ, huyện Ngọc Lặc | Di tích Lịch sử | Phế tích | Chưa xếp hạng |
30 | Đền thờ Lê Lợi | Làng Trọc, xã Kiên Thọ, huyện Ngọc Lặc | Di tích Lịch sử | Phế tích | Chưa xếp hạng |
31 | Đền thờ Lê Lợi | Núi Phù Hương, xã Phúc Thịnh, huyện Ngọc Lặc | Di tích Lịch sử | Phế tích | Chưa xếp hạng |
32 | Đền thờ Lê Lợi | Xã Cẩm Vân, huyện Cẩm Thủy | Di tích LS-VH | Phế tích | Chưa xếp hạng |
33 | Từ đường dòng họ Võ Uy | Xã Hoằng Kim, huyện Hoằng Hóa | Di tích LS-VH | Mới tôn tạo | Chưa xếp hạng |
34 | Miếu thờ Lê Lợi | thôn Eo Nê, xã Vĩnh Quang, huyện Vĩnh Lộc | Di tích LS-VH | Phế tích | Chưa xếp hạng |
36 | Đền thờ Thần phi Trịnh Thị Ngọc Lữ (thờ Lê Lợi, Lê Lai, Nguyễn Trãi, Lê Văn Linh, Lê Văn An) | Xã Xuân Bái, huyện Thọ Xuân | Di tích LS-VH | Mới tôn tạo | Chưa xếp hạng |
37 | Đền thờ Lê Trung Giang (thờ Lê Lợi) | xã Hoằng Ngọc, huyện Hoằng Hóa | Di tích LS-VH | Mới tôn tạo | Chưa xếp hạng |
38 | Khu tưởng niệm tượng đài Lê Thái Tổ | Tp Thanh Hóa | Địa điểm lưu niệm danh nhân | Dựng mới | Chưa xếp hạng |
Có thể bạn quan tâm!
- Tục thờ cúng các nhân vật lịch sử tham gia hội thề Lũng Nhai năm 1416 ở Thanh Hóa - 21
- Tục thờ cúng các nhân vật lịch sử tham gia hội thề Lũng Nhai năm 1416 ở Thanh Hóa - 22
- Tục thờ cúng các nhân vật lịch sử tham gia hội thề Lũng Nhai năm 1416 ở Thanh Hóa - 23
- Tục thờ cúng các nhân vật lịch sử tham gia hội thề Lũng Nhai năm 1416 ở Thanh Hóa - 25
- Tục thờ cúng các nhân vật lịch sử tham gia hội thề Lũng Nhai năm 1416 ở Thanh Hóa - 26
- Tục thờ cúng các nhân vật lịch sử tham gia hội thề Lũng Nhai năm 1416 ở Thanh Hóa - 27
Xem toàn bộ 250 trang tài liệu này.
PHỤ LỤC 3
MỘT SỐ TÀI LIỆU VĂN TỰ VÀ TRUYỀN MIỆNG VỀ NHÂN VẬT THAM GIA HỘI THỀ LŨNG NHAI
I. TÀI LIỆU VĂN TỰ
1.1. Sắc phong:
SẮC PHONG LÊ LAI
Sắc cho giáp Lê (nhiều chi họ Lê hợp thành giáp) phủ Hoằng Hóa, tỉnh Thanh Hóa phụng thờ: Thái úy Tịnh Quốc công tôn thần; Thái úy Trung Quốc công tôn thần; Thái úy Phúc quốc công tôn thần; Tán trị cẩm y vệ tôn thần giúp nước hộ dân nghiệm thấy linh ứng. Nay Trẫm đúng tứ tuần (40 tuổi) làm lễ khánh tiết, trải ban chiếu báu ơn sâu bể rộng tăng lên một bậc: Thái Tịnh Quốc công tôn thần; Thái úy Trung Quốc công tôn thần tất cả đều được gia tặng thêm là Trác vĩ thượng đẳng thần, Thái úy Phúc quốc công tôn thần tặng thêm là Quang Ý trung đẳng thần, Tán trị cẩm y vệ gia phong là linh phù tôn thần, cho phép các thôn xã thờ phụng như trước để thần ngầm giúp dân ta. Vâng sắc. Năm thứ 9 đời vua Khải Định (1924). [Theo bản dịch trong hồ sơ di tích từ đường dòng họ Lê Duy, thôn Thôn Kim Sơn, làng Kim Đính, xã Hoằng Tiến, huyện Hoằng Hóa của Ban quản lý Di tích Danh thắng Thanh Hóa]
SẮC PHONG TRƯƠNG LÔI
Sắc phong bậc công thần vì vận mệnh dân tộc, quốc gia mà dẹp giặc xây dựng đất nước hưng thịnh sáng nghĩa cao cả bậc đại phu tả xa kỵ vệ đại tướng quân Thái bảo triều quận công trụ cột cao cả Trương Lôi được ban họ vua Lê Lôi, có tài năng hết lòng hết sức ở trận Mường Cốc Linh Sơn. Lên tham gia khởi nghĩa phò quốc gia quyét giặc phương Bắc giữ vững biên cương khi tại chức đã vì nước lập quy ước sáng suốt, chỉnh đốn chính thể trước sau có nhiều công huân toàn vẹn xứng đáng phong tặng thêm là tiên phong mở phủ phò giúp nước Thượng tướng quân thái phó quận công Lê Lôi ban thưởng tướng công tên thụy là Trực Nghi, nên có sắc phong này. Ngày 2 tháng 7 năm Cảnh Hưng thứ 14 (1753). [Theo bản dịch trong hồ sơ di tích lịch sử văn hóa đền thờ Lê Trương Lôi, Lê Trương Chiến của Bảo tàng tỉnh Thanh Hóa]
SẮC PHONG TRƯƠNG CHIẾN
Sắc phong bậc công thần dẹp giặc xây dựng đất nước hưng thịnh, sáng nghĩa cao cả, đại phu thiết đột kỵ vệ quân nội hầu trụ cột quốc gia thiếu úy Trương Chiến vâng ban họ vua Lê Chiến đứng đầu quân thiết kỵ hết lòng hết sức ở trận Mường Cốc, phò vua dẹp yên giặc Bắc khôi phục nước nhà, vì nước quên mình trước sau có nhiều công huân to lớn toàn vẹn vì vận mệnh đất nước. Do đó vâng theo chiếu chỉ phục hồi đất nước phồn vinh có triệu mưu lược trừ bọn cuồng tặc
phản loạn ở nơi xa. Công đức muôn đời ơn soi sáng mãi. Được phong thêm Tú Trụ Thái Bảo Lý Quận công trụ cột quốc gia Lê Chiến. Ban thưởng tướng công (vì có cả văn công, võ công, trụy viện trực chính) nên có sắc phong này. Ngày 2 tháng 7 năm Cảnh Hưng thứ 14 (1753) [Theo bản dịch trong hồ sơ di tích lịch sử văn hóa đền thờ Lê Trương Lôi, Lê Trương Chiến của Bảo tàng tỉnh Thanh Hóa]
1.2. Văn bia:
LAM SƠN VĨNH LĂNG BI
“Vua họ Lê tên húy là Lợi, tổ ba đời tên húy là Hối người phủ Thanh Hóa. Thường ngày đi chơi Lam Sơn thấy có đàn chim bay lượn dưới chân núi Lam như vẻ đông người tụ họp, cho rằng chỗ này là đất tốt, liền dời nhà đến chỗ đấy, được ba năm thì thành sản nghiệp, con cháu ngày một đông, nô bộc ngày một nhiều, việc dựng nước, mở đất thực gây nền từ đấy. Bấy giờ làm quận trưởng cả một vùng.
Ông nội tên húy là Đinh, nối được nghiệp nhà, theo trí người trước, bộ hạ có đến hàng nghìn người. Bà nội họ Nguyễn, là người rất có đức hạnh, sinh được hai con trai trưởng là Tòng, thứ là Khoáng, tức thân phụ của vua...
Mẹ của vua họ Nguyễn tên húy là Thương, chăm đạo đàn bà, cửa nhà hòa thuận, gia đạo càng thêm hưng thịnh. Bà sinh được ba con, trưởng là Học, thứ là Trừ, út tức Vua.
Con trưởng được cha truyền nghiệp chẳng may mất sớm. Vua một lòng kính cẩn kế thừa tổ nghiệp. Tuy thời gặp loạn mà chí lại càng bền, giấu mình chốn núi rừng, lấy việc cày cấy làm nghiệp. Vì phẫn nộ lũ cường tặc hung bạo, càng chuyên tâm vào thao lược binh thư, dốc hết của nhà khoản đãi tân khách.
Năm Mậu Tuất dấy họp nghĩa quân, đóng trên bờ sông Lạc Thủy, trước sau đánh hơn 20 trận, đều đặt mai phục, xuất kỳ bất ý, lãnh chỗ nhọn, thừa chỗ hở lấy ít địch nhiều, lấy yếu chống mạnh.
Năm Bính Ngọ đánh ở Tốt Động, đại thắng bèn tiến quân vây thành Đông
Đô.
Năm Đinh Mùi giặc gửi viện binh An Viễn hầu Liễu Thăng lãnh mười vạn
binh từ Quảng Tây tiến sang, Kiềm quốc công Mộc Thạch lãnh năm vạn binh từ Vân Nam tiến vào. Một trận Chi Lăng, Liễu Thăng nộp đầu, chém đầu giặc hơn mấy vạn tên, bắt sống bọn Hoàng Phúc, Thôi Tụ hơn ba trăm người và hơn vạn binh sĩ. Lấy được sắc lệnh, binh phù của Liễu Thăng gửi tới Vân Nam. Mộc Thạch nhìn thấy toàn quân rối loạn, nhân đêm chạy trốn, chém đầu, bắt sống không biết bao nhiêu mà kể.
Lúc bấy giờ trấn thủ thành Đông Quan là bọn Thành Sơn hầu Vương Thông, trước kia đã cùng quân ta giảng hòa, việc chưa xong. Đến nay xin thề ở
trên sông Nhị Hà, Trấn thủ thành trì các nơi đều mở cửa ra hàng. Những quân giặc bị bắt và những quân đầu hàng có đến mười vạn người, đều tha cho về cả. Đường thủy thì cấp cho hơn năm trăm thuyền, đường bộ thì cấp cho lương ăn và ngựa, răn cấm quân sĩ không được xâm phạm mảy may của giặc. Hai nước từ đó giao hảo, bắc nam vô sự, Mường Lễ, Ai Lao thu vào bản đồ, Chiêm Thành và Đồ Và vượt biển đến cống. Vua thức khuya, dậy sớm phàm thảy sáu năm mà đất nước thịnh trị, đến nay thì băng hà”.
[Theo bản dịch của Nguyễn Văn Hải- Trung tâm Bảo tồn DSVH tỉnh Thanh
Hóa]
ĐẠI NAM QUỐC THÁI ÚY TỪ ĐƯỜNG BI MINH
“Ghi ông họ Trịnh, tên kiêng húy là Khả, được ban quốc tính họ vua nên
thường gọi là Lê Công Khả, người xã Kim Bôi, huyện Vĩnh Ninh, tỉnh Thanh Hóa (nay là xã Vĩnh Hòa, huyện Vĩnh Lộc).
Dòng dõi nhà ông trước kia đã có công chống quân Thát Đát (có lẽ là quân Nguyên Mông). Khi giặc Minh xâm lược nước ta, lật đổ triều Hồ, gây nhiều oán hận, cha mẹ ông đều bị giết hại. Nợ nước thù nhà với trí làm trai, nghe tin Thái Tổ Cao Hoàng đế người hương Lam Sơn phất cờ tụ nghĩa. Ông đến ra mắt, nhà vua giao cho nhận chức Trì khu, ban thêm cho chức Thái giám nội ngoại đi sứ các lộ Nghệ An, Diễn Châu, Tây Kinh…
Dốc hết sức lực, lập được chiến công, luận công minh thưởng: Kim tử vinh lộc đại phu, Tả Lâm Hổ vệ Thượng tướng quân, ban cho phù hiệu bạc, túi vàng, Thượng kinh xa Đô úy, sớm tối lo toan công việc. Lại ban tặng thêm chức Đô Thái Giám nội ngoại chư quân, Đô quân sự vụ, trông coi công việc cùng bốn đạo Đông, Tây, Nam, Bắc, kiêm Tri trấn Tuyên Quang.
Ông là bậc nguyên lão dưới ba triều vua Thái Tổ, Thái Tông, Nhân Tông. Công cao chói lọi, tước lộc hiển vinh, được ban chức: Tán trị Dương vũ, Tịnh nạn công thần, Thái Nguyên trấn, Phiêu kỵ Thượng Tướng quân, đặc tiến khai phủ đồng tam ty, Thái úy Bình chương quân quốc trọng sự, Thái giám nội ngoại chư dịch, Thượng trụ quốc. Ban cho túi vàng phù hiệu bạc, tước Quận thượng hầu.
Dưới triều vua Nhân Tông, giặc Chiêm Thành hai lần vây đánh thành Hóa Châu. Vua đích thân sai ông đi đánh dẹp, thắng được giặc Chiêm nhà vua thăng thưởng: Tán trị Dương vũ, Tịnh nạn bảo chính, Tá lý công thần, Nhập nội đô đốc, Bình Chương quân quốc trọng sự. Ban tặng cho túi vàng phù hiệu bạc, hàm Thái úy, tước Liệt quốc công”.
Cuối bia có bài minh ca ngợi.
[Theo bản dịch của Nguyễn Văn Hải- Trung tâm Bảo tồn DSVH tỉnh Thanh
Hóa]
1.3. Văn cúng:
VĂN TẾ LÊ THÁI TỔ Ở LAM KINH (THỌ XUÂN)
Duy.
Việt Nam quốc, Thanh Hóa tỉnh, Thọ Xuân huyện, Xuân Lam xã. Tuế thứ… niên, xuân thiên bát nguyệt, nhị thập nhị nhật. Lê Thái Tổ, Cao Hoàng Đế, đại đức minh quân ngọc lư hạ tối linh vị tiền. Quốc Mấu Hoàng thái hậu cung phi công chúa, các chư vị đế vương lê Lợi triều kế thế vị tiền. Các bậc hoàng hậu cung phi, công chúa, ân nhân Lê Lợi triều Bạch Y thần nữ tối linh vị tiền – Hữu phò Lê Lợi khai quốc tử tiết. Đại tướng quân đệ nhất công thần Tính Lê Lợi huý Lai vị tiền. Tứ trụ đại quan, lục bộ đại thần vị tiền. Tả đường niên tôn thần vị tiền – Hữu đương canh chư vị thần hoàng tôn thần vị tiền. Viết vị hữu thường niên đáo bát nguyệt nhị thập nhị nhật, toàn dân làng tu thiết lễ nghi, lễ nghi kim nhật âm phù lầm liệt, ngưỡng vọng cao minh niên hiệu Thuận Thiên. Tính Lê Lợi huý Lợi. Xin ngài chứng giám cứu nước cứu dân an cư lạc nghiệp nhân khang vật thịnh. Đại đức phối thiên Thành đế trải muôn đời cứu nước tiếng thơm người, bốn phương tôn thành kính, cùng một dạ phụng thờ, nhang khói. Nhớ đức vua xưa khí tướng khác thường mạnh khôn rất giỏi dốc chuyên tâm về việc lược thao. Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân. Quân cứu nước trước lo trừ bạo, mười năm dòng nếm mật nằm gai. Từ Lam Sơn cắt thẳng nghĩa Lĩnh, dẹp mưu tặc thu về sông núi. Thương tướng sĩ lòng như biển cả. Hoà nước sông chén rượu ngọt ngào. Khi Lương Sơn lương cạn mấy tuần lúc khổ luyện quân không một lẽ. Đánh trận đầu thu đương Nguyễn Chích. Cuối cùng về vây chặt Đông quan bắt Vương Thông quỳ gối tâu hàng.Tướng cứu viện Liễu Thăng tử trận. Ải Chi Lăng muôn thuở chưa nhoà. Tướng Mộc Thạch kinh hồn bạt vía. Đức vua thể hiện lòng nhân đạo cứu sinh còn lại quan quân cho về nước xây dựng cơ đồ sửa sang giường mối. Lời Bình Ngô vang bản hùng ca. Nền độc lập đậm đà thêm pho sử. Sự nghiệp ngời ngời ngàn đời bất tử, muôn dân vinh dự nhớ ơn ngài. Cho đến nay thần kiếm đâu. Dạ những mỏ màng. Còn thánh tướng bia lăng mộ đá mà lòng mong mỏi. Hôm nay ngày huý kỵ. Tấm lòng thành của toàn dân làng mong mỏi, kính dâng lên bạc cửu nghi tinh khiết xin ngài chứng giám. Cẩn cáo.
VĂN TẾ LÊ THÁI TỔ Ở NHÀ THỜ HỌ ĐÀM LÊ (TP THANH HÓA)
Duy.
Cộng hòa xã hội chũ nghĩa Việt Nam. Tuế thứ…..niên; bát nguyệt nhị thập nhị nhật, Thanh Hóa tỉnh, Thanh Hóa thành phố, Đông Lĩnh xã, Vân Nhưng làng. Tế chủ Đại Đàm tộc tề tựu về đây, Vân Nhưng Thái xã, hùng khái oai nghiêm. Trên có hồng thiên, dưới có hậu thổ cùng Sơn thần, thổ địa xin thành tâm cung nghinh lễ vật phù tiến kim ngân, hương hoa, đăng trà, trái quả. Thực hiển hân tri
nghi căn triều cáo vu. Thực Lai Tổ Đường Đại Vương tôn thần, Đức khởi Tổ Cao Hoàng Đế Lê húy Lợi, niên hiệu Thuận Thiên, cùng các bậc công Thần khởi quốc, Trung Vũ Đại Vương, Lê Thạch Chiêu Trung Vương, Lê Khôi Trung Vũ, Hầu tướng Lê Khang Lương, Nghĩa hầu Lê Thành, Hậu Lê Trung Hưng, Đô đốc Phúc Chiêu Công, Thượng đẳng anh linh, tối linh, thần vị tiền kế. Tuyên Đô đốc Phúc Đại Công, kế truyền Đô đốc Phúc An Công, Đô đốc Phúc Thọ Công, đô đốc Đại tướng quân phần Quận Công, Đô đốc Thiên Lương Hầu. Tặng Mỹ Vương, Lữu Quốc Công, Tả Đô đốc Thái Phó, Nguyên Quân Công, Đàm Tướng Công trị quốc, tùy dân, lẫm chức linh, ứng vị tiền. Hiển Tằng tổ khảo đặc tiền phù quốc, thượng tướng quân, Vịnh Quận Công, Đàm Tướng Công, Tử Thị Nhuệ. Dũng Phụ Đạt, Trương Thiều, Giả Phong Hồng Huân, Tuân Đức tuyên triết, Anh Du Đại Vương, Quang Úy Dực Bảo Trung Hưng Tôn thần vị tiền. Tổ Khảo đặc tiền Phù Quốc thượng tướng quân, phái Quận Công, Đàm Tướng quân, Tư Thụy trung cầu dũng lược gia phong, Anh thanh tuấn liệt; Đại Vương Đàm túc, rực bảo Trung Hưng tôn thần vị tiền. Quận Công Thái Úy, Đàm Quận Công, Chi tử chi tôn thánh môn kể suốt, húy Ngọc Hợp tự Ngọc Điền. Gia phong Hồng nhân Công chúa, rực bảo Trung Hưng tôn thần vị tiền. Anh linh tiên tổ, văn mưu võ lược, Nghĩa Hộ Lê Môn, rực quang tiền đại phúc, Dư Hậu Côn lập Ấp, Khai Tương điện am tử lý, Khái sát Định Khải Trang, Phan Thanh Quốc thừa kỷ công dinh. Thế như Kiên Thiên Thủ, nhị tuyên suốt uyên thích lễ thời văn hóa đồng căn hồng ân, lễ nghi tái thiết, tấu rõ vô ngôn dung kỳ hiển hưởng. Vĩnh bảo tổ tôn, thực lai tổ đường, chi phù hộ giá. Cẩn cáo.
VĂN TẾ LÊ LAI Ở ĐỀN AN LẠC (HOẰNG HÓA)
Duy.
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Tuế thứ… niên, chính nguyệt Kiến Dần, thập ngũ nhật, Thanh Hóa tỉnh, Hoằng Hóa huyện, Lê Tộc. Tế chủ… Thủ từ hợp đồng bản tộc thượng hạ đẳng cẩn dụng lễ vật phù tửu thanh trước cảm chiều cốc vu. Tiền Tổ bình Ngô khai quốc công thần dịch bào thế quốc Thái úy Phúc quốc Công tứ thị toàn nghĩa tướng công bao phong Trung Túc Vương thượng đẳng phúc thần kim triều gia tặng Quang úy Thượng đẳng tôn hựu đại vương phối dĩ phúc quốc phu nhân.Tiền Tổ Bình Ngô Thiếu úy tặng phong kiến tiết hầu.Tiền Tổ Bình Ngô Thiếu úy tặng phong Chiêu Quận công.Tiền Tổ Lũng Nhai công thần Thái úy Trung quốc Công Tứ thụy Uy Vũ tướng công bao phong Tương Bình thượng đằng thần phúc thần kim triều gia tặng Trác vĩ Thượng đẳng thần tôn hiệu đại vương, phối dĩ Trung quốc phu nhân.Tiền Tổ Trung Hưng Công thần Thái úy Tĩnh quốc Công Tư thụy Chính úy tướng công bao phong hồng ân thượng đẳng phúc thần kim triều gia tặng Trác vĩ thượng đẳng thần tôn hiệu đại vương phối dĩ
Tĩnh quốc phu nhân.Tiền Thái úy Hoài quận công Lê Trí.Tiền tả Vệ đô thừa chánh sử ty tặng Thái bảo quận công thụy Viết Bình Cương phủ nhân phối dĩ Thái bảo phu nhân.Tiền Tổ Vệ đô thừa chánh sứ ty tặng Thái bảo quận công thụy Viết Bình Cương phủ nhân phối dĩ Thái bảo phu nhân. Tiền tổ Tán trị công thần Cẩm y vệ Tự Đức chính phủ quân gia phong linh phù tôn thần phối dĩ Tán trị phu nhân. Tiền Tổ Tá trung quân Đô đốc.Tiền Nhị vị Hiệu quân nghĩa Công chúa; Hiệu Quận Mỹ Công chúa. Tiền Tổ Tá thừa Chánh sứ ty thụy Viết Tự Thủ chính tiên sinh. Tiền Tổ Tham đốc phủ Minh Tính hầu tự Mân Đạt. Tiền Trung quân Đô đốc phủ Thanh quận công. Tiền Thái phó tự Khanh Văn Quảng Bá. Tiền Trung quân Đại phu Mỹ quận công. Tiền Tổ Tự Đức Trung phu quân. Tiền thù Bạ Quan Tự Phúc Hóa Phủ quân Vị Tiền Viết Vì Hữu Tiết Nhật Xuân Thiên Tộc Phái tự vu từ đường lễ trần cầu phúc.Cung Quy Tiền tổ đức đại dịch bào công cao thế quốc tự cổ truyền lai vu kiêm hưởng ước tổ khảo tinh thần, tử tôn khang cát nguyệt kỳ chứng giám tứ dỹ hòa bình bản tộc trung bảo tráng thiếu kiên thiên tải thuần hòa cộng lộc phủ tử tôn nhân khang vật thịnh vạn niên huệ trạng hàm phu. Thu miễn tam tai; Đông nghinh bách phúc tài lộc tăng gia; sở cầu như ý; sở nguyện tất hòa thực lại tiên tổ phụ trì chi đại huệ dã kính dĩ từ đường tả chiêu hữu mục liệt vị khanh tướng hưởng tự từ đường vị tiền. Cạp bản thổ địa chính thần văn võ bộ hạ quan liêu phủ sắc mệnh quan giám thử từ đường giữ bản tộc chính tiến phụ tiến Lê Gia đẳng chư tiên tổ khảo, đồng chứng tế duyên phục duy thượng hưởng.
VĂN TẾ LÊ HIỂM (NÔNG CỐNG)
Duy.
Việt Nam quốc, Thanh Hóa tỉnh, Nông Cống huyện, Tân Phúc xã, Thái Sơn thôn. Tuế thứ …… niên, xuân thiên tam nguyệt, chấp thập lục nhật. Ban tộc, tộc chủ Thái Sơn thôn, hương lão, hương trương quan viên quý viên, đồng tộc các chi tộc, thiện nam, tín nữ, đồng tộc binh dân thượng hạ đẳng. Cẩn dĩ lễ nghi tư thành thanh thúy, hàn hân sính lễ hoa quả, thanh bồng hương đăng đẳng vật, phù tiếu kim ngân, phủ lưu thanh trước, cam chiêu cáo vu, đấu vu từ đường cung thỉnh. Tiến cáo Cao Tổ Đại Quan Lang, Duệ Chinh Hầu, bình Ngô khai quốc, khởi nghĩa Lam Sơn, duy chung minh nghĩa, hiệp mưu đồng đức. Bảo chính công thần nhập nội Thái Bảo Đông Bình chương sự, Đại Kim Ngư tứ kim phù huyện thượng hầu Phụng Tứ Quốc chính Thái Bảo Hồng Quốc. Công thượng trụ Quốc thụy chung định bao phong quyên du địch triết hoành liệt vĩ văn bát đạt minh mẫn hồng liệt cao huân. Đốc khánh kim hiệu tham dự triều chính Đại Kim Ngư, tứ kim phù huyện thượng hầu trấn Lạng Sơn; Phụng tứ quốc Chính trưởng Lục Bộ thượng thư chi binh dân từ tụng; Bà Quốc Trưởng Công chúa Lê Quý Thị Hiệu Từ Lan vị tiền. Tiền Cao cao Tổ suy chung minh nghĩa hiệp mưu đồng đức Bảo Chính công
thần nhập nội, chính trực thông minh hách trạc Tuấn Hưng dực Bảo Trung Hưng quang úy trung đẳng tôn thần vị tiền. Tiền Cao cao tổ tỷ thụ ẩm phong đại hoàng, triệu mưu khuông tích kế thế khang dân Thánh văn, Thần võ, bí liệt duy hưu, Đốc Khánh thần hổ triệu mưu linh ủng kim du vĩ liệt duyên hưu. Thái phó Đồng Bình Chương sự tứ kim ngự đại kim phù huyện Thượng hầu, Thượng tứ Quốc Chính Thái Phó cung Quốc Công Thượng trụ, Quốc trụ tĩnh giản bao phong. Tiền cao cao tổ bình Ngô khai quốc, khởi nghĩa Lam Sơn duy chung; Tá Lý Dương, Vũ Minh Nghĩa đồng đức hiệp mưu Bảo Chính công thần nhập nội chung đẳng tôn thần vị tiền. Tiền cao cao tổ tỷ chính thất trụ ấm phong, phu nhân Lê Quý Thị Ngọc Chính tỷ từ lâm vị tiền. Thuần lộc, thuần duy diên huống đồng mưu, Phổ Huệ Anh Nghị quả đoản tài mưu, Siêu chung dực ấn hồng du, Tuấn lược dực bảo trung hung Quang úy. Quân cẩm thị vệ, đô chỉ huy sứ Kim Dũng, hầu húy luân tự Phúc Lương cặp tỷ, Hiệu Thục Yên vị tiền. Tiền cao cao Tổ Dưỡng, Tử Tiền duy, Việt Tự Minh Huệ thử hậu, Hiệu Dương Xuân công chúa, Hiệu từ Mỹ hậu tiền. Tiền Cao Cao tổ dương, Vũ Quy Dũng, Đặc triết Thượng Tướng quân kim Tổng chỉ huy, hóa vệ tự thuần tiến, Cặp tỷ hiểu Từ Nhu vị tiền. Tiền cao cao Tổ đô Quý phò mã Thượng tướng dân, Ngô xá bá chấn, Lạng Sơn lê cũng vậy tiền, cao cao Tổ tông, binh xứ Giám Đường Hầu Lê, Tướng công tự Huệ bảo vật tiền, trung đẳng tôn thần vị tiền. Tiền cao cao Tổ Tỷ Lưu Quý thị hiệu Ngọc Nẫm thụy đoan tỉnh Bà đồng mai hiệu dẫn lượng. Duệ thống chung chính, đốc bạt Anh Nghị; Trung du nghĩa liệt, Duyên hưu Phổ Huệ tứ mưu hành khiển. Cự dúy huy trỳ Tuấn Lương rực bảo, Sư Thượng trụ Quốc, Thái sư Lạng Quốc, công Thụy trường Thọ, bao phong Kim Duy, địch triết năm công; Thủy tích vĩ phúc Hoành Hưu. Đội trưởng hậu vi, lãnh húy binh Tuấn Nguyễn danh quý, Biên Công tự phúc, chúc cặp tỷ vị tiền. Phả cặp bản âm, Lê Gia Tiên Tổ, Đỗ Gia Tiên Tổ, Lưu Gia Tiên Tổ, Vũ Gia Tiên Tổ, Trịnh Gia Tiên Tổ; Trần Gia Tiên Tổ, Cù Gia Tiên Tổ, Tống Gia Tiên Tổ, Phùng Gia Tiên Tổ, Phan Gia Tiên Tổ. Trực lại Tổ tiên phả cặp bản âm Liệt Miếu Từ Đường; Ta ban Hữu, ban Bộ hạ quan Quân Đồng lai phối hưởng. Bảo hộ các chi tộc nhân khang vật thịnh. Cẩn cáo.
II. TRUYỀN THUYẾT
GƯƠM THẦN: do Bác Lê Quang Nghiêm, 71 tuổi, xã Xuân Lai, huyện Thọ Xuân kể
Lúc ấy Lê Lợi đi cày ngoài đồng. Lưỡi cày vấp vào một vật tròn nhẵn nhụi. Ông lấy lên xem thì đó là một khúc gỗ hai đầu có hai vòng sắt một đầu lại có lỗ sâu, hình chữ nhật. Nghe Lê Thận kể chuyện, ông xin mang kiếm về tra thử thì thấy lưỡi và cán khít nhau rất chặt, rất vừa. Tra kiếm xong Lê Lợi chỉ kiếm xuống dòng sông Lường thì nước sông sùng sục sôi lên một chốc rồi đoạn sông đó cạn