Trương Lương - Hình mẫu của tiểu loại nhân vật đế sư trong trước tác các tác giả nhà nho Khảo sát nguồn tư liệu Trung Quốc và Việt Nam - 26

Mỗi lúc động mối sầu, mượn ly rượu, bao sự vẩn vơ. Những câu phú Danh sơn, ai khéo giũa gọt

Giữa khoảng trời đất mênh mang, riêng ấp ủ một tấm lòng son.

(Nguyễn Thượng Hiền, Tuyển tập Thơ Văn, Nxb Lao động, Trung tâm Văn hoá Ngôn ngữ Đông Tây, 2004, tr. 87 - 88)



Dịch nghĩa:

Ký quốc nội chư đồng chí

Nhiệt huyết mãn hung ức Bi ca thế nan thu.

Hành đăng hải ngoại sơn, Dẫn lãnh vọng Viêm châu. Dao tri trần ái tế,

Bất phạp anh tuấn lưu Phấn lực khuông Hán tộ Thỉ tâm báo Hàn cừu

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 225 trang tài liệu này.

Gửi đồng chí trong nước Máu nóng tràn đầy trong lòng Buồn hát nước mắt khôn cầm.

Trương Lương - Hình mẫu của tiểu loại nhân vật đế sư trong trước tác các tác giả nhà nho Khảo sát nguồn tư liệu Trung Quốc và Việt Nam - 26

Trèo lên hòn núi ngoài biển. Ngẩng cổ ngóng về Viêm châu. Vốn biết trong chốn trần ai, Không thiếu gì phường anh tuấn. Gắng sức giúp cơ đồ nhà Hán

Quyết tâm trả mối thù cao vua Hàn.

(Nguyễn Thượng Hiền, Tuyển tập Thơ Văn, Nxb Lao động, Trung tâm Văn hoá Ngôn ngữ Đông Tây, 2004, tr. 157 - 159)


Dịch nghĩa:

Lữ Tấn cảm hoài

Vạn lý cô thần cửu tử dư,

Giang sơn hữu hận thế triêm cư. Chuỳ Tần dĩ phá thiên kim sản, Tá Tống nan bằng bán bộ thư.

Tiệm hỷ Trung thiên khai nhật nguyệt, Hoàn bi cố quốc phó khâu khư.

Thập niên vị toại tiêm cừu chí, Do tự xuy tiêu học Tử Tư


Hoài cảm khi trọ tại Tấn Thành

Cô thần đã nhiều lần suýt chết ngoài muôn dặm, Căm hận vì non sông, nước mắt dầm áo.

Đánh Tần đã phá hết gia sản ngàn vàng, Giúp Tống khó nhờ vào sách cũ nửa bộ

Mừng nỗi trời Trung Hoa, vừng nhật nguyệt đã dần sáng rạng, Nhìn về đất nước cũ, cảnh hoang tàn xiết nỗi đau thương.

Mười năm chưa thỏa chí diệt thù, Nghề thổi sáo còn học Tử Tư.

(Nguyễn Thượng Hiền, Tuyển tập Thơ Văn,

Nxb Lao động, Trung tâm Văn hoá Ngôn ngữ Đông Tây, 2004, tr. 162 - 163)


Châu bạc Hương Cảng Nghĩ trạo thương châu độc phóng ca, Vân biên hồi vọng cựu sơn hà.

Nhân gian la vòng không như chức, Vạn lý trường thiên nhất hạc qua.

Hải vũ tần niên thượng đấu tranh, Lâm lưu kích tiếp khí tung hoành Tố thư chung hữu hưng vượng nhật


Dịch nghĩa:

Mạc hận chuỳ Tần kế vị thành Hải tống sơn nghênh vạn lý thân, Thiên giao bất tử địch phong trần. Nam quy đãi phá thiên tằng lãng,

Xiết thủ kình ngư hướng quốc nhân.


Đi thuyền ghé Hương Cảng

Thuyền đậu bên bãi sông một mình hát vang Ngoảnh trông non sông cũ ở cuối chân mây. Khắp nơi người ta chăng lưới như mắc cửi, Muôn dặm trời cao một con hạc bay qua.

Bao năm ở nước ngoài lo việc đấu tranh, Giữa dòng gò chèo tỏ khí mạnh dọc ngang.

Đọc Tố thư cuối cùng cũng có ngày làm nên sự nghiệp Việc gì phải lo kế dùng chuỳ đánh Tần chưa thành công. Biển đưa, núi đón tấm thân đi xa muôn dặm,

Trời cho không chết để chống lại cuộc gió bụi. Về nam sẽ phá tan nghìn lớp sóng,

Bắt lấy cá kình để khao người trong nước

(Nguyễn Thượng Hiền, Tuyển tập Thơ Văn,

Nxb Lao động, Trung tâm Văn hoá Ngôn ngữ Đông Tây, 2004, tr. 185 - 187)


14. Phan Bội Châu (1867 - 1940)

Trương Lương từ Hán Vương quy Hàn (Dĩ Thần vị kì chủ nhĩ vi vận)

Hán đình mưu thần; Hàn gia cố nhân.

Tân ân tuy trọng; Cựu nghĩa thiên ân.

Tích giả quy lai, kế tung hoành nhi quả tựu;

Kim yên từ biệt, chí thời đạt dĩ tiền trần. Chí tai Lưu hầu; Trung hồ sở sự.

Giả tá Hán chi tư; Vi báo Hàn chi địa.

Hận vạn kim chi uổng tán, thượng hữu cừu nhân; Hạnh thốn thiệt chi do tồn, tu thường túc chí.

Ký tắc: Lữ Anh phục tru; Huỳnh Dương hậu tá. Ngô quân hữu hậu, tồn vong chi thiên ý vị tri; Thần tử hà tâm, giải cấu chi nhân nhan cảm vị.

Viên bái thủ ư Lưu ông: Nguyện phục lai ư Hàn thị. Khảng khái trần từ; Vị: Lương bố y.

Hạnh Lưu Trần chi tao tế; Thiêm tả hữu chi truy tuỳ. Khiếu hổ hà năng, không tích chất chuỳ chi hám;

Đồ long hữu ước, đãn bằng xích kiếm chi uy.

Thân nghĩa phẫn ư lưỡng gian, dĩ giác thiên tùng sở nguyện Uỷ tiềm linh ư ngũ thế, chỉ ưng địa hạ hữu tri.

Cố phương thâm hồ cảm đái; Khởi khinh ngôn hồ biệt li. Độc thị điểu hoài cựu túc; Bất kham yến bảng tuỳ phi.

Thập dư niên bình ngạnh chi tung, tương hữu đãi nhĩ; Thiên lí ngoại quan hà chi mộng, mỗi giác thê kì.

Kim Hàn hầu chi ký lập; Khởi thần Lương chi cảm vi. Âm từ vị li; Tinh thần dĩ trì.

Niệm Tam Tấn chi di thần, cẩu đắc sinh hoàn vi hạnh nhĩ; Thẫn Lục triều chi túc trái, nguyện tỷ tử giả nhất thường chi Tuy mạc lạc hề tân tương tri, hữu như thử nhật;

Nhiên sở hoài hề cựu chi cố, thỉnh tùng kim từ.

Tạ long chuẩn chi chủ nhân; Biệt Tàm Tùng chi lai lộ. Bái quận lăng thần; Hà dương trác ngọ.

Khứ hạc khứ hề vương tôn; Hành phục hành hề cố thổ. Nại ông thử biệt, định sầu nhung mạc vô tân;

Công tử biệt lai, thặng hỷ tôn bang hữu chủ.

Hồi thủ nhi yên phi sàn đạo, thị thuỳ lộc ỷ Tần tam; Cử đầu nhi vân cận Tấn giao, hà xứ long phi thái ngũ. Ky thần quốc thần; Du tử hiếu tử.

Tam sinh chi nộ khí kim bình; Tái tạo chi hùng tâm thử thuỷ.

Nhất vãng chi tình thâm tự hải, mã thượng ông vị tất tri ngô; Tương lai chi sự đại như thiên, Ba Trung khách hà năng ky nhĩ. Giả sử phụ Hán hữu nhật, Trung nguyên bất phụ ư tiền tâm; Hà lao phục Hán thử hồi, trù hoạch nhưng phiền ư phụ nhĩ.

Dịch nghĩa:

Trương Lương từ vua Hán về Hàn Với triều Hán là mưu thần. Với nhà Hàn là cố nhân. Ơn mới tuy trọng đại. Nghĩa cũ cũng ân cần.

Ngày xưa xin về, mưu tung hoành đã thoả mãn; Nay đây từ biệt, chí xin đưa để phân trần.

Lưu Hầu thật là khôn ngoan; Trung với người mình phụng sự. Mượn cái vốn giúp Lưu Bang; Làm cái nơi báo Hàn thị

Giận muôn vàng uổng bỏ, vẫn có người thù May tấc lưỡi hãy còn, quyết đền túc chí.

Thế rồi: Lữ Anh bỏ mình; Huỳnh Dương phò tá Vua ta có cháu, tồn vong trời có ý sao

Thần tử lòng nào, gặp gỡ người đâu dám nghĩ. Cúi đầu lạy Lưu ông; trở về Hàn thị

Khảng khái trình bày; Rằng: Lương bố y Mau Lưu Trần gặp gỡ; được tả hữu truy tuỳ. Thét cọp làm gì, chỉ tiếc một dùi để giận;

Giết rồng có hẹn, những mong thước kiếm ra uy

Nghĩa phẫn trong hai khoảng cao dày, đã biết lòng trời cho thoả Anh hồn của năm đời chung đỉnh, chắc rằng dưới đất có nghe? Còn nặng ơn vì che chở; Há xem nhẹ về biệt ly.

Chỉ nghĩ chim yêu tổ cũ; Không đành én cạnh theo bay. Hơn mười năm bèo dạt hoa trôi, chính đang chờ đợi; Ngoài ngàn dặm non mơ ước mộng, còn tưởng nọ kia

Nay Hàn hầu đã được dựng lại; Tôi Trương Lương đâu dám nghĩ gì! Tiếng tăm chưa đi, Tinh thần đã đi.

Nghĩ rằng Tam Tấn tôi xưa, còn đang sống là may lắm; Huống lại Lục Triều nợ cũ, vì kẻ chết có tiếc chi

Tuy không gì vui bằng mới quen, có như ngày ấy; Nhưng chỉ hiềm vì cớ nghĩa cũ, xin từ nay đi.

Xin tạ chủ nhân mày rồng; Từ biệt Tàm Tùng lối cũ Bái Quận sáng đi; Hà Dương tới ngọ

Đi đâu đi hỡi Vương tôn; Về lại về nơi cố thổ. Ông già từ đó, buồn thay khách vắng nhà binh; Chàng trẻ lại đây, mừng nỗi nước này có chủ.

Ngoảnh mặt khói bay Sàn đạo, ba Tần hươu dựa vào ai? Ngẩng đầu mây sát Tấn giao, năm sắc rồng bay đâu tá? Ky thần là quốc thần; Du tử là hiếu tử.

Giận ba sinh nay đã thoả rồi Lòng tái tạo bắt đầu từ đấy.

Đi một bước tình sâu như bể, chàng Lưu Bang chưa hẳn biết ta; Gẫm tương lai việc lớn tày trời, khách Ba Thục ngăn sao được tớ! Ví thử giúp Hán có lúc, lấy Trung nguyên không phụ lòng xưa; Cần chi về Hán sau này, sắp kế hoạch còn phiền bày vẽ.

(Phan Bội Châu toàn tập, tập 1, Nxb Thuận Hoá, 1990, tr. 80 - 81)

PHẦN II

MỘT SỐ TRƯỚC TÁC CỦA TÁC GIẢ NHÀ NHO TRUNG QUỐC VỀ TRƯƠNG LƯƠNG


1. 王 维 (701 - 761)

【故太子太师徐公挽歌四首】

功德冠群英,弥纶有大名。轩皇用风后,傅说是星精。就第优遗老,来朝诏不名。留侯常辟谷,何苦不长生。谋猷为相国,翊戴奉宸舆。剑履升前殿,貂蝉托后车。齐侯疏土宇,汉室赖图书。僻处留田安,仍才十顷馀。旧里趋庭日,新年置酒辰。闻诗鸾渚客,献赋凤楼人。北首辞明主,东堂哭大臣。犹思御朱辂,不惜污车茵。久践中台座,终登上将坛。谁言断车骑,空忆盛衣冠。风日咸阳惨,笳箫渭水寒。无人当便阙,应罢太师官。

(全唐诗,中华书局,1960,卷 126, 页 1283)

2. 李 白 (701 - 762)

【赠饶阳张司户燧】

饮苍梧泉,夕栖碧海烟。宁知鸾凤意,远托椅桐前。蔺岂曩古,攀嵇是当年。愧非黄石老,宊识子房贤。业嗟落日,容华弃徂川。一语已道意,三山期著鞭。蹉跎人间世,寥落壶中天。独见游物祖,探元穷化先。

何当共携手,相与排冥筌。

(全唐诗,中华书局,1960,卷 168, 页 1737)

【经下邳圯桥怀张子房】

子房未虎啸,破产不为家。沧海得壮士,椎秦博浪沙。报韩虽不成,天地皆振动。潜匿游下邳,岂曰非智勇。我来圯桥上,怀古钦英风。惟见碧流水,曾无黄石公。司息此人去,萧条徐泗空。

(全唐诗,中华书局,1960,卷 181, 页 1847)


【猛虎行(此诗萧士赟云是伪作)】

朝作猛虎行,暮作猛虎吟。肠断非关陇头水,

泪下不为雍门琴。旌旗缤纷两河道,战鼓惊山欲颠倒。秦人半作燕地囚,胡马翻衔洛阳草。一输一失关下兵,朝降夕叛幽蓟城。巨鳌未斩海水动,鱼龙奔走宊得宁。颇似楚汉时,翻覆无定止,朝过博浪沙,暮入淮阴市。张良未遇韩信贫,刘项存亡在两臣。暂到下邳受兵略,来投漂母作主人。贤哲栖栖古如此,今时亦弃青云士。有策不敢犯龙鳞,窜身南国避胡尘。宝书玉剑挂高阁,金鞍骏马散故人。昨日方为宣城客,掣铃交通二千石。时六博快壮心,绕床三匝呼一掷。楚人每道张旭奇,心藏风云世莫知。三吴邦伯皆顾盼,四海雄侠两追随。萧曹曾作沛中吏,攀龙附凤当有时。溧阳酒楼三月春,杨花茫茫愁杀人。胡雏绿眼吹玉笛,吴歌白纻飞梁尘。丈夫相见且为乐,槌牛挝鼓会众宾。我从此去钓东海,鱼笑寄情相亲。

(全唐诗,中华书局,1960,卷 165, 页 1713)

Xem tất cả 225 trang.

Ngày đăng: 22/07/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí