Cơn xung đột biết mấy lần lăn lóc Tới Trần Lưu xảy gặp Lưu quân Năm năm ba tấc lưỡi kinh luân; Màn thao lược vây Tần nhốt Hạng Ơn Hán vẹn nợ Hàn chẳng vướng,
Túi vương hầu treo gưởi gánh Hoàng Công. Một mình lui tới thung dung.
(Nguyễn Công Trứ trong dòng lịch sử, Nxb Nghệ An, Trung tâm Văn hóa Ngôn ngữ Đông Tây, 2008, tr. 179 - 180)
Trương Lương1
Thương thay cho nho nhã! Kính thay người nho nhã! Gặp thuở nhuận Tần
Vốn lòng lương tá.
Chung đỉnh năm triều ân ái, nặng sa trung lỗi dịp phó sa, Lược thao ba cuốn trí mưu, xa Bái hạ tìm người trưởng giả. Đẩy đưa tấc lưỡi, đứng bậc đế sư,
Xốc vác năm năm, dựng nền vương bá
Nghiệp Hán thù Hàn vẹn vẽ, nặng lời Hùynh Thạch ước xưa, Đường danh nẻo lợi thờ ơ, nhẹ bước Xích Tòng thong thả.
Có thể bạn quan tâm!
- Trương Lương - Hình mẫu của tiểu loại nhân vật đế sư trong trước tác các tác giả nhà nho Khảo sát nguồn tư liệu Trung Quốc và Việt Nam - 22
- Trương Lương - Hình mẫu của tiểu loại nhân vật đế sư trong trước tác các tác giả nhà nho Khảo sát nguồn tư liệu Trung Quốc và Việt Nam - 23
- Trương Lương - Hình mẫu của tiểu loại nhân vật đế sư trong trước tác các tác giả nhà nho Khảo sát nguồn tư liệu Trung Quốc và Việt Nam - 24
- Trương Lương - Hình mẫu của tiểu loại nhân vật đế sư trong trước tác các tác giả nhà nho Khảo sát nguồn tư liệu Trung Quốc và Việt Nam - 26
- Trương Lương - Hình mẫu của tiểu loại nhân vật đế sư trong trước tác các tác giả nhà nho Khảo sát nguồn tư liệu Trung Quốc và Việt Nam - 27
- Trương Lương - Hình mẫu của tiểu loại nhân vật đế sư trong trước tác các tác giả nhà nho Khảo sát nguồn tư liệu Trung Quốc và Việt Nam - 28
Xem toàn bộ 225 trang tài liệu này.
Thảnh thơi thuyền Phạm Ngũ hồ Xuôi ngược buồm ngư một lá.
Lộc nước muôn nhà búng vẩy, thờ ơ áo vải đủ nguyền xưa,
Bụi trần một phút tan không, thủng thỉnh bữa thường theo khách lạ. Dối cũng nên mà thiệt cũng nên,
Tiên chẳng bạ nhưng trần vẫn bạ.
Phú quý mặc ai lung lạc, cánh hồng giũ sạch tiếng tàng cung,
1 Ngoài Văn đàn bảo giám, trong các sách khác đều không thấy chép bài phú này. Sách Nguyễn Công Trứ trong dòng lịch sử xếp bài này vào mục bài tồn nghi.
Thân danh chẳng bợn kê mê, gót phụng lọt xa vòng lão mã. Rất khốn thay biết lẽ tới lui
Chẳng bận bấy những điều dối trá.
Kìa kẻ cổ quăng, nọ người đại tướng, vả danh nhân kiệt có ba người. Trước xe Vân Mộng, sẵn án thương tâm, ghi chữ bảo thân riêng một giá. Y thần tiên hư đản đã đành,
Lựa Tiêu Tín công danh bao nả?
Đường tiến thoái như gương nhật nguyệt, bàn chi kẻ phải người chăng, Nghĩa thủy chung vẹn ước san hà, mới biết mưu thâm chí cả
Vả nay
Ôn qua cựu sử, thấy chữ “Trí tai Lưu Hầu”1 Khéo dấu thửa dùng, xưa nay mấy gã?
(Nguyễn Công Trứ trong dòng lịch sử, Nxb Nghệ An, Trung tâm Văn hóa Ngôn ngữ Đông Tây, 2008, tr. 206 - 207)
10. Trương Đăng Quế (1793 - 1863)
Trương Lương
Bác Lãng đương niên chí vị thân Ủy thân Lưu Hán báo cường Tần Tiên sinh bản vị tiên cừu xuất Bất thị Tiêu Hàn nhất bối nhân.
Dịch thơ:
Bác Lãng năm xưa chuyện dở dang Nên theo nhà Hán diệt cường Tần Tiên sinh vốn có thù tiên tổ
Đâu giống Tiên, Hàn các phẩm quan.
(Thơ Trương Đăng Quế (Trương Quảng Khê tiên sinh),
Lê Sơn Phương Ngọc biên dịch, Nxb Phương Đông, 2007, tr. 188 - 189)
1 Trình Tử khen rằng: “Trí tai Lưu Hầu, thiện tàng sở dụng”, nghĩa là: “Giỏi thay Lưu Hầu, giữ cho tốt để dùng”.
Dịch thơ:
Trương Lương
Thuyết khách tung hoành cửu lạm thương Duy công khí tượng huýnh tầm thường Vãng lai Tần Hạng can qua nhật
Xuất nhập Nhan Tăng đệ tử hàng Nhân kiệt khan đê Hàn quốc sĩ Đế sư kiến trọng Hán Cao hoàng Trí mưu khai sáng đan thư ngoại
Thiên cổ lệnh nhân tiện Tử Phòng.
Thuyết khách rong xe vạn nẻo đường Như ông khí tượng thật phi thường Đang khi cuộc chiến Tần và Sở
Là lúc dùi mài Nhan với Tăng Phát hiện nhân tài Hàn quốc sĩ
Tôn quân đế tượng Hán Cao hoàng Hán cơ sáng nghiệp, công cao nhất Thiên cổ nào ai sánh Tử Phòng.
(Thơ Trương Đăng Quế (Trương Quảng Khê tiên sinh),
Lê Sơn Phương Ngọc biên dịch, Nxb Phương Đông, 2007, tr. 164 - 165)
11. Cao Bá Quát (1809 - 1854)
Tặng Thổ Khối Đỗ vệ úy xuất Thanh Hóa thù ứng
Thanh thần sơ đầu tọa tản phát, Hoán chỉ tài thi tống quân biệt.
Hốt nhiên đại tiếu diện ngưỡng thiên, Bán thiên khí thổ yên vân phát,
Ngô châu chi hào, bang chi kiệt, Kim thế kỷ nhân, quân thả thuyết! Trịch nhĩ trượng bát Thanh xà mâu, Khán ngã tam tiền kê mao bút.
Dịch nghĩa:
Quân bất kiến?
Cổ lai kỷ cá cân đồng cốt thiết, Đầu thượng thanh ty thúc như tuyết Xa trần mã túc lão tiêu ma,
Trừu đáo can trường không thị huyết Hồ hải Nguyên Long cố bất trừ, Thập niên do trệ thảo vân cư.
Sinh phùng thanh thế tri hà dụng, Khải nhãn khan quân di hạ thư
Tặng ông vệ úy họ Đỗ người làng Thổ Khối ra làm việc ở Thanh Hóa
Sáng sớm chải đầu rồi ngồi xòa tóc, Gọi lấy giấy để viết thơ tiễn bác đi.
Bỗng nhiên ngửa mặt lên trời cười vang,
Hơi nhả lên lưng chừng không, bốc thành mây khói. Bác thử tính xem:
Những trang anh hào của đất ta, những bậc tuấn kiệt của nước ta. Đời nay có được bao người?
Hãy quẳng ngọn mâu Thanh xà trượng tám của bác đi Và xem ngọn bút lông gà ba đồng tiền của tôi đây.
Bác há chẳng thấy?
Xưa nay bao kẻ xương đồng da sắt,
Mái đầu đang như tơ xanh bỗng thành tuyết trắng. Bụi xe, vó ngựa đã cùn đời,
Rút hết ruột gan cuối cùng chỉ còn lại có máu.
Khí phách hồ hải của Nguyên Long cố giữ chửa dời Mười năm trời vẫn chìm lặng ở chốn am mây nhà cỏ. Sinh nhằm đời thanh bình biết có làm nên trò gì?
Lau mắt chờ xem cuốn “sách dưới cầu” của bác?
(Thơ chữ Hán Cao Bá Quát, Nxb Văn học, Hà Nội, tr. 281 - 282)
Đông vũ ngâm
Hải lục toái sự: “Đông vũ ngâm” (nhạc phủ thi). Nhân hữu thiếu tráng tòng chinh phạt, niên lão bị khí, du ư Đông vũ giả, bất cảm luận công, đãn luyến quân nhi.
Đăng bỉ chu nguyên, Khoáng quan tứ phương Cao điểu bất phi,
Bạch vân mang mang
Nhược hữu nhân hề lâm trung,
- Nhĩ hà bão khô thụ nhi bi thương? Tích tòng Bành thành vi,
Thập vạn tự hổ khẩu,
Bạch quang khởi nhân mưu, Xích đế nãi thiên thu,
Ung Xỉ thả phong hầu Nhĩ đẳng diệc hề phụ
- Tráng tai Lưu dữ Toản Tề đại phi ngô ngẫu!
Đại tao vô khí tài, Lão chuyết tự suy hủ.
Quân khan Đồ dương tử, Tước lộc cánh hà hữu?
Thuỳ phi vương thổ, phục vương thần? Nhất lạp ngang tàng hỗn thế trần.
Thả phóng hành ca giang ngoại xuân,
An năng đề đầu oải ốc, phủ ngưỡng tuỳ tha nhân?
Dịch nghĩa:
Bài ngâm Đông vũ
Sách Hải lục toái sự bài: “Đông vũ ngâm” (thơ Nhạc phủ) kể chuyện một người lúc còn trẻ theo vua đi đánh dẹp các nơi, về già bị bỏ rơi, mới đi ngao du ở đất Đông Vũ, không dám kể công, chỉ tỏ ý nhớ vua thôi.
Lên cách đồng cao rộng rãi kia, Trông khắp ra bốn phía.
Chim trên cao không thấy bay, Mây trắng trôi man mác
Thấy có người thấp thoáng ở trong rừng, Hỏi:
- “Tại sao nhà ngươi lại ôm cây khô mà đau xót thế?” Khi trước, theo vua, bị vây ở Bành Thành
Hàng mười vạn người đều làm mồi cho miệng hùm. Vầng bạch quang đâu phải là do người,
Thần Xích đế là trời đưa lại. Ung Xỉ còn được phong hầu, Thì lũ các anh ai mà nỡ phụ?
- Lưu hầu và Toản hầu (Tiêu Hà) kể cùng hùng tráng thật, Nhưng khác nào như nước Tề to quá mình không sánh bì được Thợ trời không bỏ phí một thứ gì,
Chỉ vì già cả, tự mình hoá mục nát. Hãy xem chàng mổ dê,
Tước lộc có làm gì?
Ai chẳng là sống ở đất vua, làm tôi nhà vua? Một chiếc nón nghiêng ngang giữa trần thế,
Thảnh thơi vừa đi vừa hát bài ca “Giang ngoại xuân”
Có lẽ đâu chui đầu vào mái nhà thấp, cúi ngửa theo ý người khác!
(Thơ chữ Hán Cao Bá Quát, Nxb Văn học, Hà Nội, 1976, tr. 325 - 327)
12. Nguyễn Thượng Hiền (1868 - 1925)
Hữu hoài
Xích huyện phong trần giải hệ duy, Thương thiên cung kiếm mạc phan truy. Thân đương ngũ thế Hàn ân trọng,
Dịch nghĩa:
Lực tận tam phân Hán tộ nguy. Tế liễu dinh tiền thương sự vãng,
Đào hoa động khẩu tuyệt nhân tri. Phiêu linh thử khúc nhân gian biến, Hồi vọng dao kinh lệ ám thuỳ.
Lòng tưởng nhớ
Chốn kinh kỳ gió bụi cổi dây bỏ đi nơi khác, Cung gươm trên trời biếc khó vịn theo.
Thân mang lấy ơn nước Hàn nặng đã năm đời, Sức cùng để nghiệp nhà Hán chia làm ba nước. Trước dinh Tế liễu buồn nhớ chuyện cũ,
Cửa động Đào hoa tuyệt không ai hay. Khúc hát phiêu linh khắp còi đời, Ngảnh lại kinh đô lệ âm thầm nhỏ sa.
(Nguyễn Thượng Hiền, Tuyển tập Thơ văn,
Nxb Lao động, Trung tâm Văn hóa Ngôn ngữ Đông Tây,2004, tr. 69 - 70)
Tặng Nguyễn Kỳ Am Kim khuyết quy lại phú toại sơ Lăng vân tráng chí đãi hà như. Bạch Liên vãn kết sơn trung xã.
Hoàng Thạch tiêu truyền nguyệt hạ thư. Hạo kiếp thiên niên bi chiến đấu,
Du tung tứ hải tạp tiều ngư.
Tương phùng mạc thuyết Khai Nguyên sự, Nam uyển thu phong hận hữu dư.
Dịch nghĩa:
Tặng ông Nguyễn Lộ Trạch (hiệu Kỳ Am)
Từ Kim khuyết trở về để ẩn cư, Chí lớn tung mây nghĩ thế nào?
Lúc già trong núi, kết xã Bạch Liên,
Ban đêm dưới trăng truyền sách Hoàng Thạch. Hạo kiếp nghìn năm đau thương việc chiến đấu, Chơi khắp bốn bể xen lẫn bọn ngư tiều.
Gặp nhau chớ nói việc đời Khai Nguyên, Vườn nam gió thu gợi mối giận có thừa.
(Nguyễn Thượng Hiền, Tuyển tập Thơ Văn,
Nxb Lao động, Trung tâm Văn hóa Ngôn ngữ Đông Tây, 2004, tr. 87 - 88)
Dịch nghĩa:
Độc danh sơn phú thư hậu
Tiêu sắt quan hà tuế dục lan, Kinh phong sậu vũ tứ man man. Ngũ niên Hán ác tài nan triển, Thất nhật Tần đình lệ vị can.
Mộng giác đăng cao không hữu vọng, Sầu lai bả tửu thái vô đoan.
Hà nhân trác tựu Danh sơn cú,
Thiên nhưỡng mang mang bão thốn đan.
Đọc bài phú danh sơn, viết mấy vần ở sau
Nước non heo hắt, năm đã sắp tàn, Gió dập mưa dồn, tự nghĩ miên man. Màn Hán năm năm, tài khôn thi thố, Sân Tần bảy tuổi, lệ chửa ráo khô.
Sau khi tỉnh giấc mộng, lên đỉnh non, luống công trông ngóng,