Công hơn Tam kiệt nhẫn đôi người. Thế gian đâu có thần tiên nhỉ?
Ơ hỡ! Ông này sa chước ngươi.
(Hồng Đức quốc âm thi tập,
Nxb Văn hóa, Viện Văn học, Hà Nội, 1962, tr. 85)
3. Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491 - 1585)
Bạch Vân am quốc ngữ thi tập
Già thơ dại, tính lôi thôi Hoàn bái còn nên thốt sự đời? Nghèo hiểm là khi vì nước
Khó khăn dầu mệnh ở trời. Vắng lui đường lợi khôn đi đỗ
Rộng hẹp lòng nhân mặc nghỉ ngơi Khám hạ Lưu hầu từ Hán lộc
Có thể bạn quan tâm!
- Trương Lương - Hình mẫu của tiểu loại nhân vật đế sư trong trước tác các tác giả nhà nho Khảo sát nguồn tư liệu Trung Quốc và Việt Nam - 21
- Trương Lương - Hình mẫu của tiểu loại nhân vật đế sư trong trước tác các tác giả nhà nho Khảo sát nguồn tư liệu Trung Quốc và Việt Nam - 22
- Trương Lương - Hình mẫu của tiểu loại nhân vật đế sư trong trước tác các tác giả nhà nho Khảo sát nguồn tư liệu Trung Quốc và Việt Nam - 23
- Trương Lương - Hình mẫu của tiểu loại nhân vật đế sư trong trước tác các tác giả nhà nho Khảo sát nguồn tư liệu Trung Quốc và Việt Nam - 25
- Trương Lương - Hình mẫu của tiểu loại nhân vật đế sư trong trước tác các tác giả nhà nho Khảo sát nguồn tư liệu Trung Quốc và Việt Nam - 26
- Trương Lương - Hình mẫu của tiểu loại nhân vật đế sư trong trước tác các tác giả nhà nho Khảo sát nguồn tư liệu Trung Quốc và Việt Nam - 27
Xem toàn bộ 225 trang tài liệu này.
Cô Thành náu ẩn Xích Tùng chơi.
(Tổng tập văn học Việt Nam,
Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 1997, tập 6, tr. 402)
Mấy kẻ anh hùng ngỡ đã ngoan
Bao nhiêu đường hiểm một xông càn Đành hay vàng đỏ cho người mộc Dễ biết tiền đày chắc vải can
Mật ngọt ruồi vào, ruồi đắm đuối Mồi thơm cá đến, cá phàn nàn Hán gia tam Kiệt trong ba ấy
Ai chẳng hay toan? Ai khéo toan?
(Thơ văn Nguyễn Bỉnh Khiêm, Nxb Văn học, Hà Nội, 1983, tr.105)
4. Phùng Khắc Khoan (1528 - 1613)
Khiển muộn
Hiêu nhiêu ngột tỏa độc thư đường Nhất nhật phiên thành nhị nhật trường Vô sự tức tiên na hữu thuật
An tâm thị dược cánh hà phương Tẩy trừ tục ngoại phiến trần tĩnh Uẩn súc hung trung vạn giáp cường Nhược ngộ khả vi cơ hội xứ
Công thành vị tất thiếu Trương Lương.
Dịch thơ:
Giải buồn
Thư đường ngồi thẳng vẻ nghiêm trang Một buổi thành hai buổi rò ràng
Vô sự là tiên, chi phải thuật
An tâm ấy thuốc, chẳng cần phương Bụi nhơ quét sạch đời yên tĩnh
Binh giáp mang theo chí quật cường Cơ hội đáng làm như có gặp
Công thành hồ dễ kém Trương Lương.
(Thơ Phùng Khắc Khoan cuộc đời và thơ văn, Nxb Hà Nội, 1985, tr. 206 - 207)
5. Lê Quý Đôn (1726 - 1784)
Trương Lương Khôn thay rất mực bác Lưu hầu Lui tới thong dong tự trước sau
Vì giận không thành mưa Bác Lãng Nên đành phải bội ước Hồng Câu
Suy tiêu khiến giặc sinh lòng chán Tịch cốc theo tiên kế rất mầu Sáng cũ một pho ba tấc lưỡi
Nhà nho như thế thực phong lưu.
(Văn đàn bảo giám,
Trần Trung Viên sưu tầm, Nxb Văn học, Hà Nội, 2004, tr. 25)
6. Ngô Thì Sĩ (1726 - 1780)
Hoạn hải
Dịch nghĩa:
Thiên hữu minh trì cực diếu mang, Nhân gian hoạn hải thế vưu cường Hoài sơn độc liệu thâm vô để
Tẩu thạnh cuồng sưu huyễn bất thường Lương, Lãi chu hư tài để ngạn,
Hàn, Bành phàm bão tiện khuynh tường, Thiệp hanh duy thủ Trung phu quyết.
Y, Phó hà tằng phạ xuất dương.
Bể hoạn
Trời có một cái bể lớn rộng vô bờ,
Nhưng bể hoạn của người đời còn hơn thế. Nước lụt độc ôm cả núi sâu không đáy, Gió táp lăn đá huyễn ảo không thường.
Trương Lương, Phạm Lãi thuyền nhẹ nên đến bờ Hàn Tín, Bành Việt buồm no gió nên gãy cột
Bước trên vận hanh thông thì giữ lời quyết đoán của quẻ Trung phu Y Doãn, Phó Duyệt chưa từng sợ ra bể.
(Ngô Thì Sĩ, Nxb Hà Nội, 1987, tr. 117)
7. Ngô Thì Nhậm (1746 - 1803)
Phú đặc “Động Đình hồ thủy văn lan tráng” Văn chương nguyên bất hội can thành, Tráng tự khán lai khước hữu tình.
Tam nguyệt phu công nhất nhân dực; Thất tuần lai cách phiến ngôn thành. Động Đình vị hiểm Tử Phòng hiểm; Thiên Nhạc phi tranh Gia Cát tranh. Toán đắc hàm nhu duyên hóa vũ,
Chí công đường thượng hữu cao minh.
Dịch xuôi:
Phú đặc câu “Động Đình hồ thủy văn lan tráng” Văn chương vốn không biết việc “can thành” Chữ “tráng” xem ra lại rất có tình
Ba tháng công to, nhờ một người phò tá
Bảy tuần đến chầu, một lời nói đủ thành công
Hồ Động Đình chưa hiểu bằng cái hiểm của Tử Phòng Núi Thiên Nhạc không cao bằng cái cao của Gia Cát Tính ra công ngấm nhuần do mưa hóa thành
Ngửa trông câu đối trên “chí công đường” rất cao minh.
(Tuyển tập Ngô Thì Nhậm, quyển 1 Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 1978, tr. 432)
8. Nguyễn Hữu Chỉnh (1741 - 1787)
Trương Lưu Hầu phú
Phú:
Trương Lưu Hầu! Trương Lưu Hầu! Ngao cực gây thiêng;
Hồ tinh cấu sáng.
Vằng vặc my thanh, mục tú; kì sĩ phong tư.
Nhơn nhơn thức viễn, tài cao; danh nho khí tượng.
Y bát theo một mối cầm thư,
Chung đỉnh dòi năm đời khanh tướng.
Trời đất thuở cát vàng, bụi tía; áng công danh thông uốn lưỡi Nghi, Tần. Nước nhà khi bể biếc, dâu xanh; mưu báo phục há kém tay Kha, Nhượng. Rải nghìn vàng tìm khách thiếu niên;
Nâng chiếc dép tôn người lão trượng.
Bác Lãng một chuỳ tiết nghĩa, trợt vẩy Tổ Long; Trần lưu ba quyển lược thao, mở lòng Đình trưởng. Ngôi đế sư này chốc phúc tâm,
Việc trù sách vận trong duy trướng.
Bóng cờ phất thập thò trên đỉnh Khoái; sơn hà trăm hai lẻ, một khắc hóa tan tành.
Tiếng tiêu đưa rủ rỉ chốn thành Cai; tử đệ tám nghìn dư, nửa đêm xuôi khảng tảng.
Việc năm năm đưa tấc lưỡi còn thừa,
Cơ nghìn dặm quyết trong màn một nhoáng.
Cung Tần rót một liều thuốc đắng, bệnh phú ông tỉnh lại lúc tê mê.
Cửa Hồng khuyên ba chén rượu nồng, hồn quý phụ xiêu về cơn chếnh choáng. Cho dượng Phàn giương mắt tại quân trung;
Dìu ông Bái rảo chân về Bá Thượng.
Áo gấm ví von, xui miệng trẻ, giục trùng đồng xót dạ lại cồn cồn;
Chén châu giả mẽ ghẹo gan già, làm ngu lão tức mình gieo choang choảng. Bao quận tiễn đưa xe ngựa Hán, dập dìu xui đốt nẻo về Đông;
Huỳnh Dương lẩn quẩn nước non Hàn, rong ruổi rắp gây nền thụ đảng. Đổ mồ hôi nghe lời khách vừa xong,
Sa nước mắt nghĩ sự nhà lai láng.
Chí ngùi ngùi khôn chiếm còi Trung nguyên, Lòng ngại ngại phải chăng miền Tây hướng.
Y nhiệm bán gươm ba thứ, lòng quốc sĩ như soi.
Mưu thâm vạch đũa tám điều, mặt thụ nho, mới hoảng. Việc quyên Quan chia Tín, Bố đương quyền.
Chước hoãn chiến máy Tề, Lương phán trạng.
Gương trung nghĩa treo tranh Tề Cảnh, Kỉ tướng quân khi gấp khúc phải liều. Máy hiểm thâm đánh mái sơn cương, Phàn tráng sĩ lúc nguy nghi phải gượng. Bài gián Sở giục chàng Nhụ Tử, tuốt xương, bẻ cánh, chước càng ghê,
Việc vương Tề chiều kể vương tôn, bấm gót, rỉ tai, lời phải hoảng. Lừa Vũ đưa một bức khiêm cung,
Ngăn Sở giục ba người cưu tráng.
Hồng Câu thuở chia sông một dải, nuôi hùm nào lỏng máy tiêm cừu; Cố Lăng khi cắt đất hai phần, đuổi khỉ những êm bài ngự tướng.
Ngẫm thiên văn hay phá Sở cơ màu; Xem địa lý biết hưng Lưu khí vượng.
Đứa điền phu trỏ vời miền Trạch Tả, ai hay chẳng ấy chước cao thâm. Thuyền Trưởng ông dòng đợi bến Ô Giang, ai biết chẳng là mưu liệu lượng. Lũ trăm Tham nào đọ sức kinh luân.
Trong tam kiệt dễ so công chiến xướng.
Phấp phới lá cờ trước gió, huân lao sá kể thứ Phàn, Đằng.
Vẫy vùng cán việt lên đàn, công tích thông so phường Giáng, Quán, Đế sư cao một bậc, trọng đức tôn danh,
Hầu tước hậu ba muôn, luận công hành thưởng.
Đường báo quốc nhờ lưng Xích đế, tiệc Nam cung đã vin tiếng bay rồng; Chước bảo thân men gót Hoàng Công, miền Bắc thành lại tìm nơi ấp phượng. Giá đã cao, nên khủng khỉnh vương hầu;
Mình được nhẹ, nên tiêu dao ngày tháng.
Rờ rỡ thơ son khoán sắt, lời nãi ông dù trỏ núi thề sông;
Thênh thênh non đá am thông, nguyền tiên tử đã quen mây, nhuộm ráng. Trót phải duyên cùng họ Hán mà theo;
Nên làm dấu lấy chữ Lưu kẻo đãng.
Đạo ấy, sá bàn chân với nguỵ, đấng cao minh chi vướng sự hữu vô.
Lòng này, ai biết Hán hay Hàn, phải biện bạch kẻo thẹn cùng phủ ngưỡng. Trần hiêu chẳng bận ấy thần tiên;
Thanh tĩnh góp dần nên đạo dưỡng.
Ngao ngán chè thông, rượu cúc, lọ chắt chiu hồ ngọc đầy vơi; Thảnh thơi quạt gió, đèn trăng, mảy hiu hắt đan sa nấu nướng. Bầu tiên, chén thánh, mặc hơi khà;
Khóa lợi, giam danh nào dính dáng.
Tưởng lại lúc hươu lồng, khỉ tắm; đã trống Hàm Quan, lại chùy Cửu Lý, giận anh hùng từ đấy sạch lâng lâng.
Trông về khi trâu mỏi, ngựa già; kìa xe Vân, Mộng, nọ án Thượng Lâm; lòng du tử ngẫm thay cười sảng sảng.
Hà, Tham vị trí: bọt nước lênh đênh;
Tín, Việt công danh: áng mây thấp thoáng.
Thua, được thừa điều Hán Sở: túi xích tùng đủng đỉnh mái thanh sơn.
Nhục, vinh gác chuyện Tiêu, Hàn: buồm Phạm Lãi nghênh ngang dòng bích lãng. Ở giang hồ thì danh sĩ phong lưu;
Vào lăng miếu lại đại thần thể dạng.
Nghe văng vẳng trốn sa trung dục dịch, lẳng lặng lừa then, rút máy; giải chúng tâm nâng một kẻ oán thù.
Thấy hiu hiu khi quốc bản long lay, khoan thai giúp cánh, kên lông: yên trừ vị vãy bốn người dật khoáng.
Hay dùng nào hết chước huyền vi. Khéo giấu dễ hao cơ bí tạng.
Đi lại tha hương, cố quốc; lưới anh hùng khôn giò chốn thiển thâm. Ra vào đế tử, tiên ông, lồng trí thuật dễ ngự trong lai vãng.
Nghĩa thủy chung biện bạch cũng êm.
Đường tiến thoái thong dong chẳng vướng.
Một lần mộng dọc ngang trong tám còi, đủ phê pha công Hán, nợ Hàn; Ba tấc lưỡi đưa đẩy ngoại năm năm, vừa lọn vẹn thù Tần, oán Hạng.
Ngẫm từ trên như Trọng Liên, Phạm Lãi nào hơn. So về dưới dầu Lý Tĩnh, Khổng Minh chưa đáng.
Ngôi đế sư mà danh cao sĩ; ngoại vật há còn trong bụng, nghìn thu chữ thắm chửa phai vàng.
Nền nho giả mà giá danh thần; chẳng tiên nhưng cũng khác phàm, muôn kiếp sử xanh còn để sáng.
Nay đọc danh thần truyện, xem thượng hữu thiên, Trách ai thượng hữu cổ nhân,
Sao chẳng nguyện hi Tử Phòng, mà lại nguyện hi Gia Cát Lượng.
(Phú Việt Nam cổ và kim, Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội, 2002, tr. 161 - 166)
9. Nguyễn Công Trứ (1778 - 1858)
Vịnh Trương Lưu Hầu I
Năm năm uốn lưỡi trong màn,
Một mình ơn Hán nợ Hàn giả xong. Trương Lưu Hầu là Hàn công tử, Dòi năm đời chung đỉnh đai cân.
Liều một dùi chưa giả nợ cố quân Uốn ba tấc nấy thân thờ Hán chúa Thuộc độc phun Tần lây đến Sở, Mùi thơm ngậm Hán trún cho Hàn
Trong năm năm gầy một mối giang san, Đền nợ trước ơn sau đều vẹn xóng.
Tràng phú quý xem bằng mây mỏng,
Túi Xích Tùng riêng đủng đỉnh mái thanh sơn. Nhục vinh gác chuyện Tiêu, Hàn.
Vịnh Trương Lưu Hầu II Trương Lưu Hầu là Hàn công tử, Dòi năm đời chung đỉnh nước Hàn. Tới chưng khi quốc vận gian nan, Niềm ưu ái trăm bề báo phục.