Triển vọng và những giải pháp nhằm thúc đẩy quan hệ kinh tế - thương mại giữa Việt Nam và Trung Quốc - 5

1. Hạng mục và cơ cấu đầu tư

Từ năm 1991 đến năm 1998 hai bên đã tạo điều kiện thuận lợi cho các xí nghiệp lớn tích cực tham gia hợp tác kinh tế. Đến cuối năm 1997, các đơn vị Trung Quốc đã đầu tư 41 hạng mục công trình ở Việt Nam với tổng kim ngạch ước tính 102 triệu USD, đứng thứ 21 trong số các nước và lãnh thổ đầu tư vào Việt Nam. Trong đó dự án đầu tư lớn nhất là xây dựng khu chế xuất Linh Trung ở thành phố Hồ Chí Minh với vốn đầu tư cả hai bên là 14 triệu USD, tiếp đó là nhà máy thép Hải Phòng với vốn đầu tư là 9,7triệu USD.

Tính đến cuối quý III năm 1999 Trung Quốc đã đầu tư vào 56 công trình (không tính số dự án đã hủy bỏ) với tổng số vốn hơn 100 triệu đô la Mỹ, tập trung vào một số ngành dịch vụ, sản xuất hàng tiêu dùng và sản phẩm nông nghiệp như: xây dựng văn phòng, nhà ở, giáo dục, y tế nhân dân, thủy tinh, đồ chơi, thuốc lá, kem, thuốc trừ sâu... để tiêu dùng tại thị trường Việt Nam. Trong các hạng mục đầu tư của Trung Quốc phải kể đến hai công trình lớn là khu chế xuất Linh Trung và chợ Sắt ở Hải Phòng (15,5 triệu USD).

Cơ cấu đầu tư của Trung Quốc vào Việt Nam có những điểm giống với đầu tư của Trung Quốc trên thế giới và tại các nước ASEAN khác: chủ yếu đầu tư vào cơ sở hạ tầng do Trung Quốc có kinh nghiệm tích luỹ về lĩnh vực xây dựng kết cấu hạ tầng tại một số nước đang phát triển về kinh tế, có đội ngũ kỹ sư và công nhân xây dựng tinh thông nghiệp vụ được tôi luyện trong những năm cải cách kinh tế.

Hiện nay hơn 5.000 doanh nghiệp Trung Quốc đang hoạt động tại 120 nước và khu vực với tổng số vốn đầu tư trực tiếp là hơn 5 tỷ đô la Mỹ, tập trung vào lĩnh vực xây dựng các cơ sở hạ tầng, một số nhà máy chế biến nguyên liệu và sản phẩm nông nghiệp. Tại các nước ASEAN có hơn 300 dự án do Trung Quốc đầu tư, chủ yếu trong lĩnh vực xây dựng.

Hiện nay Trung Quốc đứng thứ 24 trong tổng số các nước vào vùng lãnh thổ đầu tư vào Việt Nam với hình thức phong phú: xí nghiệp 100% vốn nước ngoài, xí nghiệp liên doanh và hợp doanh và có cả ở 3 miền Bắc, Trung, Nam. Tuy với số vốn ít và hạng mục hạn chế trong một số ngành, nhưng các dự án đầu tư của Trung Quốc đã tạo công ăn việc làm cho trên 1.500 lao động trực tiếp tại Việt Nam.

Về phía mình, do năng lực còn hạn chế nên số lượng đầu tư của Việt Nam và Trung Quốc không nhiều, chỉ tập trung tại 2 tỉnh Vân Nam và Quảng Tây. Tại Vân Nam, đầu tư của Việt Nam chỉ là 240.000 đô la Mỹ.

2. Những đặc điểm trong quan hệ đầu tư Việt - Trung

- Quan hệ đầu tư Việt - Trung chủ yếu là quan hệ một chiều từ Trung Quốc sang Việt Nam do năng lực tài chính của Việt Nam quá nhỏ bé so với Trung Quốc. Dự trữ ngoại tệ của Việt Nam chỉ ở mức khiêm tốn trong khi Trung Quốc có dự trữ ngoại tệ hơn 154 tỷ đô la Mỹ đứng thứ hai thế giới.

- Đầu tư của Trung Quốc chiếm tỷ trọng nhỏ cả về số lượng dự án và tổng số vốn đầu tư (khoảng 2% dự án và 3% số vốn đầu tư trong tổng số dự án và tổng số vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam). Sở dì có tình trạng như vậy là do: (a) Các doanh nghiệp lớn của Trung Quốc chưa thật sự coi trọng thị trường

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 56 trang tài liệu này.

Việt Nam; (b) Các công ty vừa và nhỏ của Trung Quốc thường không đủ năng lực cạnh tranh với các công ty khác trong việc đấu thầu đối với các công trình gọi thầu tại Việt Nam; (c) Tác động của khủng hoảng kinh tế Đông Nam Á, từ năm 1997 Việt Nam giảm bớt xây dựng các công trình hạ tầng - mặt mạnh trong đầu tư của Trung Quốc; (d) Lĩnh vực xây dựng mà Trung Quốc mong muốn đầu tư là lĩnh vực mà Việt Nam có nhiều năng lực; (e) Một số thủ tục hành chính ở Việt Nam còn phiền hà.

- Quy mô đầu tư của một số dự án ở mức thấp nhất, 60% các công trình có tổng số vốn không quá 1 triệu đô la Mỹ. Bình quân một số dự án đầu tư của Trung Quốc tại Việt Nam chỉ có mức vốn là 2,3 triệu đô la Mỹ, thấp hơn rất nhiều so với mức bình quân 16,6 triệu đô la Mỹ trong các xí nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam. Sở dĩ có tình trạng như vậy do đầu tư của Trung Quốc chủ yếu là các doanh nghiệp vừa và nhỏ với năng lực tài chính hạn chế so với các công ty nước ngoài khác.

Triển vọng và những giải pháp nhằm thúc đẩy quan hệ kinh tế - thương mại giữa Việt Nam và Trung Quốc - 5

- Các xí nghiệp đầu tư của Trung Quốc đều nhằm tiêu thụ sản phẩm tại thị trường Việt Nam, không xuất khẩu hàng hóa sang nước thứ ba. Sở dĩ như vậy là do: (a) Việt Nam và Trung Quốc đều là những nước có hàng hóa xuất khẩu dựa trên lợi thế so sánh và giá nhân công rẻ; (b) Như trên đã phân tích chủ đầu tư Trung Quốc tại thị trường Việt Nam chủ yếu là các doanh nghiệp vừa và nhỏ - những người quan tâm đến cung cấp hàng tại chỗ, thay thế hàng nhập khẩu tại Việt Nam, chưa đủ sức tới việc xuất khẩu hàng hóa ra bên ngoài.

3. Đầu tư trực tiếp của Trung Quốc tại Việt Nam

Hạng mục đầu tư liên doanh đầu tiên giữa một doanh nghiệp Trung Quốc với một doanh nghiệp Việt Nam được cấp giấy phép hoạt động tại Việt Nam là nhà ăn Trung Quốc mang tên "Hoa Long" tại phố Hàng Trống Hà Nội (Giấy phép số 274, cấp ngày 25-11-1991, tổng số vốn đầu tư 200.000 USD). Như vậy là, ngay sau khi quan hệ hai được được bình thường hóa thì doanh nghiệp của Trung Quốc đã đầu tư trực tiếp vào Việt Nam. Trong những năm tháng tiếp theo, số hạng mục đầu tư trực tiếp của xí nghiệp và công ty Trung Quốc vào Việt Nam tăng dần. Dưới đây là một số tình hình và con số cụ thể:

* Tính đến tháng 12 năm 199:

Tổng số dự án: 1 - Tổng vốn đầu tư: 2.000.000 USD.

* Tính đến tháng 12 năm 1992:

Tổng dự án: 10 - Tổng vốn đầu tư: 3.044.143 USD.

* Tính đến tháng 12 năm 1994:

Tổng số dự án: 22 - Tổng vốn đầu tư: 24 triệu USD.

* Tính đến tháng 12 năm 1995:

Tổng số dự án: 33 - Tổng số vốn đầu tư: 60 triệu USD.

* Tính đến tháng 6 năm 1997:

Tổng số dứan: 42 - Tổng vốn đầu tư 66 triệu USD.

* Tính đến quý III năm 1999:

Tổng số dự án: 56 - Tổng vốn đầu tư: hơn 100 triệu USD.

Tính đến giữa năm 1997, các địa phương sau đâycủa Trung Quốc đã có xí nghiệp và công ty đầu tư trực tiếp vào Việt Nam: Quảng Tây, Quảng Đông (Tham Quyến, Chu Hải...), Hải Nam, vùng Đông Bắc Trung Quốc, Hà Bắc, Vân Nam, Bắc Kinh... Trong số các địa phương Trung Quốc nói trên thì khu tự trị dân tộc Choang Quảng Tây là nơi có nhiều dự án đầu tư trực tiếp nhất tại Việt Nam, thí dụ trong tổng số 33 dự án đầu tư trực tiếp của các doanh nghiệp Trung Quốc tại Việt Nam tính đến cuối năm 1995 thì trong đó có 18 dự án là của Quảng Tây, chiếm trên 54%.

Cũng tính đến giữa năm 1997, các tỉnh, thành phố và thị xã sau đây của Việt Nam đã tiếp nhận dự án đầu tư trực tiếp của phía Trung Quốc: Hà Nội, Hải Phòng, Quảng Ninh, Nam Hà (cũ), Thái Bình, Hòa Bình, Lạng Sơn, Hà Giang, Thái Nguyên, Sơn Tây, Thanh Hóa, Sông Bé, thành phố Hồ Chí Minh... Trong đó, Hà Nội, Quảng Ninh là hai nơi tiếp nhận nhiều dự án đầu tư trực tiếp của Trung Quốc hơn những nơi khác.

Các dự án đầu tư trực tiếp của Trung Quốc tại Việt Nam trong thời gian

qua, chủ yếu nhằm vào các lĩnh vực sau đây:

Khách sạn và nhà hàng các món ăn của Trung Quốc, in mác nhãn bao bì thực phẩm, tráng gương và gia công các loại kính, gia công chế biến xuất khẩu, vận tải quá cảnh bằng ô tô, sản xuất kinh doanh thuốc trừ sâu, sản xuất giấy dầu lợp nhà, sản xuất lắp ráp máy đến tiền và các thiết bị có liên quan đến ngân hàng, sản xuất đầu lọc thuốc lá, sản xuất thức ăn gia súc, khai thác sản xuất ván sàn và các sản phẩm từ tre nứa, chế biến thực phẩm, sản xuất nước tinh lọc và nước giải khát từ hoa quả, may mặc quần áo quy mô nhỏ, sản xuất và bán rượu trắng, khai thác quặng cromít (Cổ Định, Thanh Hóa), đấu thầu xây dựng nền móng công trình có vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, sản xuất gạch men sứ, sản xuất giấy vệ sinh, đầu tư xây dựng chợ thương mại (chợ Sắt ở Hải Phòng), sản xuất đèn nê-ông quảng cáo và đèn ánh sáng trắng, sản xuất và bán thuốc bắc của Trung Quốc, sản xuất tôm cua cá giống,... Tổng cộng trên dưới 25 lĩnh vực sản xuất và ngành nghề kinh doanh khác nhau.

Từ tình hình nêu ra trên đây, chúng ta có thể đưa ra một số nhận xét ban đầu về đặc điểm và tính chất trong hoạt động đầu tư trực tiếp của một số doanh nghiệp Trung Quốc tại Việt Nam từ cuối 1991 đầu 1992 đến nay.

+ Tốc độ đầu tư trực tiếp của doanh nghiệp và công ty Trung Quốc vào Việt Nam còn chậm, số lượng hạng mục đầu tư ít, tổng số vốn đầu tư cũng chưa nhiều, khiến cho đến nay Trung Quốc vẫn đứng ở vị trí dưới 22 trong tổng số trên 50 nước và vùng lãnh thổ trên thế giới có đầu tư trực tiếp tại Việt Nam tính đến năm 1997.

+ Quy mô của các dự án đầu tư nhỏ bé, vốn đầu tư trung bình cho đến 1 dự án chỉ trên dưới 1 triệu USD. Điều đáng lưu ý là, trong đó có một số dự án có số vốn đầu tư quá nhỏ, chỉ trên dưới 100.000 USD. Xin đơn cử một số dự án cụ thể:

* Công ty liên doanh khách sạn: "Hưng Giang" tại thị xã Bắc Giang (giữa doanh nghiệp của Hà Bắc với doanh nghiệp của Quảng Tây, giấy phép số 329 cấp ngày 26-2-1992, tổng vốn đầu tư là 80.000 USD).

* Xí nghiệp liên doanh kính Long Giang tại Hà Nội (giữa nhà máy của Hà Nội với một công ty của Nam Ninh - Quảng Tây, Trung Quốc, giấy pép số 342, cấp ngày 26-3-992, tổng vốn đầu tư là 99.463 USD).

* Công ty liên doanh chè Việt - Hoa, tại Quảng Ninh (giữa nhà máy của Quảng Ninh với công ty xuất nhập khẩu thô súc sản của Khâm Châu - Quảng Tây, giấy phép số 344, cấp ngày 14-4-1992, tổng số vốn đầu tư là 107.680 USD)...

Số dự án liên doanh có tổng vốn đầu tư từ 1 triệu USD trở lên cũng không nhiều, trong tổng số 42 (hoặc 46) dự án liên doanh Trung Quốc - Việt Nam đã được Bộ Kế hoạch và đầu tư Việt Nam cấp giấy phép tính đến giữa năm 1997, trong đó, số liệu cụ thể về tổng số vốn đầu tư của 33 dự án, thì chỉ có 12 dự án có tổng vốn đầu tư là trên 1 triệu USD chiếm hơn 36%, trong đó chỉ có 1 dự án đầu tư theo đăng ký là trên 7 triệu USD, một dự án trên 5 triệu USD, 3 dự án trên 4 triệu USD, 1 dự án trên 3 triệu USD, 2 dự án trên 2 triệu USD, số còn lại là 1 triệu và dưới 1 triệu USD. Như thế cũng có nghĩa là các dự án liên doanh nói trên tuy cũng có những đóng góp nhất định cho xây dựng và phát triển kinh tế của Việt Nam tạo ra một số công ăn việc làm mới cho người lao động Việt Nam trong mấy năm qua, nhưng phải nói rằng tổng góp đó còn nhỏ bé và bị hạn chế nhiều, chưa tương xứng với tầm vóc kinh tế của Trung Quốc hiện nay.

* Tuyệt đại đa số các dự án đầu tư trực tiếp của Trung Quốc vào Việt Nam trong thời gian qua là dự án liên doanh với phía doanh nghiệp, công ty của Việt Nam. Trong số đó có cả thành phần của Hồng Kông như:

- Công ty liên doanh xây dựng Hà Nội - Bắc Kinh; giấy phép số 1362, cấp ngày 29-8-1985, vốn đầu tư 2.000.000 USD, gồm: Công ty xây dựng thuộc Sở xây dựng Hà Nội, tập đoàn xây dựng thành phố Bắc Kinh và Công ty du lịch Bắc Kinh, Công ty Ebim Development Ltd. Hồng Kông.

- Công ty liên doanh vận tải Việt-Quế, vốn đầu tư 500.000 USD, gồm: Công ty vận tải đường sông I của Việt Nam, Công ty Hợp tác kinh tế kỹ thuật Nam Định - Trung Quốc và Công ty hữu hạn Hán Hân của Hồng Kông, thời gian liên doanh nói chung ngắn (từ 5 năm, 8 năm, 10 năm đến 20 năm là cao nhất). Tỷ lệ góp vốn trong các liên doanh Trung - Việt nhìn chung xê dịch trong khoảng 40/50, 50/50.

Cho đến nay mới chỉ có một vài dự án là 100% vốn của Trung Quốc, trong đó có cả liên doanh với phái nước ngoài khác. Ví dụ: Công ty "Hồng Dương" 100% vốn đầu tư (997.670 USD) là của công ty trách nhiệm hữu hạn mậu dịch Hoàng Dương - Nam Ninh, Trung Quốc, tiến hành sản xuất kinh doanh nước giải khát chế biến từ hoa quả, sản xuất kem, nước uống tinh khiết; xí nhiệp Hằng Tín (ở Hải Phòng) là 100% vốn của Trung Quốc, liên doanh với Singapore, tiến hành sản xuất lắp ráp máy đèn tiền và lắp đặt các thiết bị liên quan đến ngân hàng.

- Các Công ty liên doanh Trung Quốc - Việt Nam tiến hành sản xuất

kinh doanh trong nhiều lĩnh vực khác nhau, như đã nêu ra ở phần trên, song

nhiều nhất vẫn là nhà hàng ăn Trung Quốc và khách sạn (riêng ở thành phố Hà Nội đã có đến bốn năm nhà hàng và khách sạn Trung Quốc, như: Hoa Long, Hà Quảng, Hải Yến, Ngọc Khánh, Kinh Đô,...) sản xuất công nghiệp nhẹ và hàng tiêu dùng hàng ngày, vốn đầu tư ít, quy mô sản xuất kinh doanh nhỏ, kỹ thuật và công nghệ sản xuất thuộc loại thông thường, không tiên tiến và hiện đại giống như của các nước ASEAN, Nhật Bản và phương Tây khác đầu tư trực tiếp ở Việt Nam. Cho đến nay chưa thấy có những công ty và tập đoàn kinh tế lớn của phía Trung Quốc đầu tư những dự án quy mô lớn có vốn đầu tư trên 10 triệu USD vào trong các lĩnh vực khai thác nông, công nghiệp hoặc tham gia xây dựng công trình hạ tầng cơ sở mà phía Việt Nam rất cần thiết cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước từ nay đến năm 2020. Trái lại, như đã nêu ở phần trên, nhiều công ty xí nghiệp của Trung Quốc đầu tư trực tiếp vào Việt Nam thời gian qua là của khu tự trị dân tộc Choang Quảng Tây, mà Quảng Tây thì lại là một trong những tỉnh, khu tự trị dân tộc và thành phố nghèo nhất của Trung Quốc thực lực kinh tế có hạn, trình độ kỹ thuật và công nghệ sản xuất chưa tiên tiến và hiện đại bằng Bắc Kinh, Thượng Hải, Thiên Tân, Quảng Đông...

Đầu tư trực tiếp của Trung Quốc vào Việt Nam trong mấy năm qua còn ít về số lượng dự án đầu tư, quy mô của mỗi dự án cũng rất nhỏ như đã nêu ra ở trên, đây là một thực tế phía Trung Quốc có ý kiến cho rằng: "Trung Quốc - Việt Nam từ sau những năm 70 đến đầu những năm 90, luôn luôn ở trong tình trạng cách biệt, đến lúc quay lại hợp tác tốt với nhau thì thế giới đã có những thay đổi sâu sắc, cả hai nước đều cần có một quá trình tìm hiểu và giải thích trở lại. Việt Nam vốn cho rằng Trung Quốc sẽ giúp đỡ và đầu tư kinh tế kỹ thuật lớn, nhưng vì Trung Quốc đang xây dựng hiện đại hóa quy mô lớn, thiếu vốn, không thể đáp ứng yêu cầu của phía Việt Nam. Trung Quốc lại đang ở trong thời kỳ quá độ từ kinh tế kế hoạch chuyển sang kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa, đầu tư không còn là việc của chính phủ nữa. Trong khi đó, đa số các xí nghiệp lại chưa được quyền tự chủ về đầu tư. Vì thế, Trung Quốc đến Việt Nam khảo sát thì nhiều, nhưng thực hiện các dự án thì ít". Giải thích trên của học giả Trung Quốc chỉ đúng một phần, cần phải xem xét vấn đề từ những khía cạnh khác nữa với những ý kiến và cách nhìn khách quan.

- Khi phía Trung Quốc tiến hành đầu tư trực tiếp vào Việt Nam thì ở Việt Nam đã có nhiều công ty xí nghiệp của các nước Nhật Bản, Hàn Quốc, ASEAN, Âu - Mỹ... đã và đang triển khai hoạt động đầu tư của họ. Những nước này có nhiều tiền vốn, kỹ thuật và công nghệ sản xuất tiên tiến hiện đại, lại có tầm nhìn xa và lâu dài hơn, dám bỏ ra hàng chục triệu, hàng trăm triệu USD hoặc nhiều hơn nữa vào các dự án có quy mô lớn, thời gian hoạt động dài từ 30 năm đến 50 năm. Trong tình hình đó, các doanh nghiệp Trung Quốc buộc phải tính toán kỹ lưỡng, đầu tư vào những lĩnh vực sản xuất kinh doanh nào mà hiện nay Việt Nam có nhu cầu nhưng lại không phải cạnh tranh với các nước tư bản chủ nghĩa nói trên, hơn nữa phải phù hợp với mục tiêu đầu tư vốn ra nước ngoài của Trung Quốc. Về vấn đề, một học giả Mỹ đã đưa ra ý kiến như sau: "Mức độ đầu tư và mậu dịch của Trung Quốc tại Việt Nam là phù hợp với nhau, nói chung đều là quy mô nhỏ... Mục đích đầu tư chủ yếu của Trung Quốc (tại Việt Nam) là thúc đẩy mậu dịch...". Có thể lý giải ý kiến nêu ra trên đây với nội dung

cụ thể như sau: Đầu tư trực tiếp của các xí nghiệp và công ty của Trung Quốc tại Việt Nam: một mặt, sản phẩm sản xuất ra phải bán tại thị trường Việt Nam (có một số thứ mà Trung Quốc cần đến, như quặng crômit ở Thanh Hóa thì xuất sang Trung Quốc); mặt khác phải tìm cách để mở rộng được thị trường Việt Nam để cho hàng hóa của Trung Quốc bán sang đó càng nhiều càng tốt. Nhìn vào các lĩnh vực sản xuất kinh doanh của các liên doanh Trung -Việt đã triển khai trong mấy năm qua ở Việt Nam mà chúng tôi đã liệt kê ở phần trên, thấy đúng như ý kiến nhận định của học giả Mỹ nêu ra. Chẳng hạn, các liên doanh tráng gương và gia công các loại kính, sản xuất giấy dầu lợp nhà, sản xuất đèn nê-ông trang trí quảng cáo, sản xuất mua bán đông dược, may mặc, khai thác quặng crômit ở Cổ Định Thanh Hóa (sản phẩm do phía Trung Quốc bao tiêu), sản xuất gạch men sứ, sản xuất giấy vệ sinh... đều là những ngành sản xuất kinh doanh mà phía Trung Quốc có thế mạnh, đại bộ phận những thứ cần cho sản xuất kinh doanh đều từ Trung Quốc chuyển sang. Như thế đúng là "nhất cử lưỡng đắc". Có người đã gọi đó là loại "đầu tư mở đường cho xuất khẩu của phía đầu tư". Phải nói rằng, đây là một trong những đặc điểm nổi bật trong hoạt động đầu tư trực tiếp của xí nghiệp và công ty của Trung Quốc tại Việt Nam trong thời gian đã qua.

4. Viện trợ phát triển

Trong chuyến thăm hữu nghị chính thức Việt Nam của Thủ tướng Trung Quốc Lý Bằng vào cuối tháng 11 đầu tháng 12 năm 1992, ngoài việc hai nước ký kết hai hiệp định "Hiệp định khuyến khích và đảm bảo đầu tư" và "Hiệp định hợp tác kinh tế kỹ thuật". Thủ tướng Lý Bằng đã thay mặt Chính phủ Trung Quốc hứa cho Việt Nam vay 80 triệu NDT (tương đương với 20 triệu USD theo tỷ giá hối đoái của thời điểm đó) không lấy lãi thời gian sử dụng là 5 năm, từ năm 1993 đến 1997, thời gian trả nợ từ 1-1-2003 đến 31-12-2012. Số tiền vay này dùng để mua thiết bị và phụ tùng của Trung Quốc phục vụ cho việc đổi mới và trang thiết bị lại nhà máy Phân đạm Hà Bắc, Nhà máy đệt 8-3 ở Hà Nội, xây dựng một số nhà máy thủy điện cỡ nhỏ ở 5 tỉnh biên giới phía Bắc (tiếp giáp với Trung Quốc) và xây dựng một số hạng mục nhằm giải quyết nước sạch cho nhân dân trong các tỉnh nói trên. Sau đó Chính phủ Trung Quốc lại hứa cho Việt Nam vay tiếp khoản tiền lớn hơn, là 170 triệu USD với lãi suất 6% một năm, thời hạn trả là 12 năm (để bù vào số tiền lãi phải trả, Chính phủ Trung Quốc đồng ý viện trợ thêm cho Việt Nam 10 triệu USD không phải trả lại). Số tiền vay mới sẽ được sử dụng vào việc mua thiết bị và phụ tùng của Trung Quốc để đổi mới và mở rộng nhà máy gang thép Thái Nguyên (Trung Quốc giúp đỡ xây dựng trong những năm 60), nâng sản lượng của nhà máy lên tới 348.000 tấn/năm, trong đó có 220.000 tấn là thép tấm; số tiền còn lại dự kiến sẽ xây dựng một nhà máy luyện thép mới ở Quảng Ninh. Ngoài ra, có tài liệu cho biết: trong năm 1996, một công ty của Trung Quốc đã đồng ý cho "Công ty phát triển khoáng sản 6" (LIDISACO) thuộc Tổng công ty khoáng sản Việt Nam (Bộ Công nghiệp) vay một số vốn bằng thiết bị của Trung Quốc với lãi suất là 6%/năm trong thời hạn 10 năm, để xây dựng một nhà máy chế biến quặng Ilmênít đặt tại khu công nghiệp Long Thành (Bà Rịa - Vũng Tàu), công suất 4.000 tấn Dioxit titan/năm (tổng số vốn đầu tư là 20 triệu USD), sản phẩm Dioxit titan chất

lượng cao (99% Ti2O) là phụ gia không thể thiếu được trong các ngành sản xuất sơn, cao su, giấy, men công nghiệp,... mà hiện nay Việt Nam vẫn phải nhập khẩu của nước ngoài đến 20.000 - 50.000 tấn).

Ngoài ra, có thể còn có một số viện trợ phát triển (ODA) khác nữa của Trung Quốc đã và sẽ dành cho Việt Nam. Số tiền viện trợ phát triển (ODA) của Chính phủ Trung Quốc dành cho Việt Nam trong mấy năm qua như đã nêu ra ở trên tuy chưa phải là nhiều, song vẫn rất quý và có giá trị, bởi vì Trung Quốc tuy là nước lớn có số dân đông nhất thế giới nhưng vẫn còn là nước đang phát triển chứ chưa phải là nước phát triển, giàu có.

III. ĐÁNH GIÁ TỔNG QUÁT

Nhìn chung, quan hệ mậu dịch, hợp tác kinh tế và đầu tư giữa hai nước kể từ khi bình thường hóa quan hệ đến nay có bước phát triển ổn định và mở rộng trên nhiều lĩnh vực, phản ánh nguyện vọng tăng cường hợp tác và khai thác tiềm năng bổ sung lẫn nhau của nền kinh tế hai nước. Những thành tựu và kết quả đạt được trong giai đoạn này là to lớn và cơ bản, góp phần làm thay đổi bộ mặt kinh tế - xã hội của khu vực biên giới giữa hai nước, bước đầu tạo ra những cửa ngõ quan trọng trong giao lưu kinh tế - kỹ thuật và hợp tác toàn diện giữa các nước vùng biên giới hai nước, giữa các tỉnh biên giới hai nước.

Tuy nhiên, trong quan hệ kinh tế và thương mại hợp tác đầu tư giữa hai nước còn tồn tại một số vấn đề lớn cần khắc phục trong thời gian tới là:

- Phương thức buôn bán giữa hai nước chưa linh hoạt, chưa thích ứng với điều kiện, hoàn cảnh của hai nước. Các chính sách quản lý xuất nhập khẩu của hai nước chưa phản ánh và tạo điều kiện thuận lợi để các doanh nghiệp hai nước tăng cường buôn bán.

- Các hạng mục đầu tư của Trung Quốc vào Việt Nam thường là hạng mục nhỏ, chủ yếu là cải tạo, sửa chữa các công trình viện trợ trước đây. Trong nông nghiệp, việc đầu tư vào 13 nhà máy đường gặp nhiều khó khăn, máy móc, thiết bị thiếu đồng bộ, làm chậm thời gian đưa hạng mục vào sử dụng. Việc cải tạo nhà máy gang thép Thái Nguyên và phân đạm Hà Bắc, hai bên tuy có tích cực nhưng do nguyên nhân khách quan nên tiến độ rất chậm.

- Việc hợp tác kinh tế trên một số lĩnh vực mà hai bên có nhiều khả năng chưa được quan tâm đúng mức như lĩnh vực nông nghiệp, giao thông vận tải, năng lượng, vật liệu xây dựng.

- Vấn đề thông tin thương mại, tiếp xúc giữa doanh nghiệp hai nước chưa được quan tâm đúng mức đã hạn chế các doanh nghiệp hai nước trong việc nghiên cứu, khảo sát xây dựng các quan hệ buôn bán làm ăn giữa hai bên.

Các nguyên nhân chủ yếu dẫn đến những tồn tại nêu trên, chủ yếu gồm:

- Hai bên chưa chủ động đánh giá đầy đủ tầm quan trọng và hướng lâu dài của các mối quan hệ mậu dịch hợp tác kinh tế - đầu tư giữa hai bên, từ đó chưa đề ra các chiến lược phát triển quan hệ kinh tế toàn diện trong từng giai đoạn. Các địa phương giáp biên giới mới quan tâm đến lợi ích trước mắt, chưa có tính toán đến quy hoạch phát triển lâu dài.

- Các chính sách, quy chế, biện pháp quản lý và khuyến khích phát triển

kinh tế mậu dịch giữa hai nước chưa đồng bộ, chưa kịp thời; có chính sách ban

hành không sát với tình hình thực tế nên không khuyến khích việc giao lưu kinh

tế giữa hai bên.

- Đội ngũ cán bộ các cấp, các ngành tham gia thực hiện triển khai các chủ trương, chính sách phát triển kinh tế giữa hai bên còn thiếu, yếu kém về năng lực và kiến thức, kinh nghiệm cũng như phẩm chất dẫn đến tình trạng buôn lậu, trốn thuế... thường xuyên xảy ra ở các cửa khẩu.

Để có những chủ trương, biện pháp thực hiện tốt việc giao lưu kinh tế trong giai đoạn tới, về nhận thức chúng ta nên thống nhất một số đặc điểm sau:

- Hai bên cần xác định Việt Nam và Trung Quốc là hai thị trường trọng điểm. Trong đó Trung Quốc là một thị trường láng giềng rộng lớn, có tiềm năng về hàng hóa, năng lượng, nông nghiệp. Ngược lại Việt Nam là một thị trường giàu nguồn nguyên, nhiên vật liệu có thể cung cấp cho các ngành công nghiệp Trung Quốc, đồng thời Việt Nam cũng là thị trường cửa ngõ để Trung Quốc tăng cường buôn bán với các nước Đông Nam Á. Do vậy việc đẩy mạnh quan hệ thương mại và hợp tác giữa hai nước không những có ý nghĩa to lớn về mặt kinh tế thương mại, mà còn tạo ra môi trường quốc tế ổn định cần thiết để chúng ta thực hiện đường lối mới mở cửa xây dựng và phát triển kinh tế. Xuất phát từ đó chúng ta cần vận dụng tốt tính nguyên tắc và linh hoạt, giải quyết thỏa đáng quyền lợi của cả hai bên một cách có lý có tình.

- Các thỏa thuận cấp cao, các Hiệp định Chính phủ về viện trợ, hợp tác đầu tư cần được coi trọng và triển khai nhanh chóng, đáp ứng yêu cầu và nguyện vọng của lãnh đạo, nhân dân hai nước tránh tình trạng như hiện nay việc triển khai các hạng mục thuộc viện trợ hai nước quá chậm không có tính thời gian và hiệu quả kinh tế.

- Để giải quyết một cách tích cực vấn đề thâm hụt cán cân mậu dịch, một mặt cần tăng cường quản lý nhập khẩu hàng từ Trung Quốc, nâng cao hiệu quả nhập khẩu, mặt khác tăng cường xuất khẩu các mặt hàng có tiềm năng sang Trung Quốc cũng như từng bước cải tiến cơ cấu hàng xuất, nâng cao hiệu quả xuất khẩu.

Xem tất cả 56 trang.

Ngày đăng: 06/05/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí