Chương 3
TRIỂN VỌNG VÀ GIẢI PHÁP NHẰM THÚC ĐẨY QUAN HỆ
KINH TẾ - THƯƠNG MẠI VIỆT NAM - TRUNG QUỐC
I. TRIỂN VỌNG
Triển vọng quan hệ kinh tế - thương mại Việt - Trung là vô cùng to lớn. Mối quan hệ này sẽ phát triển cả về chiều rộng lẫn chiều sâu, diễn ra trên mọi lĩnh vực của đời sống kinh tế và tiến từ hợp tác song phương đến hợp tác đa phương. Trong thời gian những tháng tới hai nước sẽ cố gắng làm hết sức mình với những biện pháp cụ thể thỏa thuận trong chuyến đi thăm Việt Nam của Thủ tướng Chu Dung Cơ mới đây nhằm vượt qua mức 2 tỷ đô la Mỹ giá trị thương mại hai nước trong năm nay, từ đó tạo đà cho việc phát triển hơn nữa quan hệ thương mại giữa hai nước trong những năm tiếp theo. Hiện nay hai bên đang thúc đẩy buôn bán hàng đổi hàng, tăng cường hợp tác giữa ngân hàng quốc doanh để thúc đẩy buôn bán qua biên giới, tăng cường trao đổi các đoàn kinh tế của các tỉnh biên giới. Về đầu tư, hai bên nhất trí sẽ cổ vũ các doanh nghiệp có thực lực của Trung Quốc đầu tư tại Việt Nam, thực hiện các dự án hợp tác lớn có hiệu quả kinh tế cao. Bên cạnh các dự án hợp tác song phương, hai nước có điều kiện thuận lợi thúc đẩy hợp tác kinh tế đa phương thông qua hợp tác ASEAN
- Trung Quốc, tổ chức hợp tác kinh tế châu Á - Thái Bình Dương (APEC) mà hai nước là thành viên chính thức tổ chức thương mại thế giới (WTO) khi hai nước trở thành thành viên.
Triển vọng hợp tác kinh tế - thương mại Việt - Trung là tươi sáng bởi vì triển vọng này dựa trên những cơ sở vững chắc về chính trị, pháp lý, kinh tế và những lợi thế về địa lý. Trong chuyến đi thăm Trung Quốc tháng 3/1999 của đồng chí Lê Khả Phiêu, hai đồng chí lãnh đạo cao cấp nhất của hai nước đã thỏa thuận về những nguyên tắc chỉ đạo trong quan hệ Việt -Trung trong thời gian tới là: láng giềng hữu nghị, hợp tác toàn diện, ổn định lâu dài, hướng tới tương lai. Những nguyên tắc này có ý nghĩa vô cùng to lớn, tạo khung quan hệ Việt - Trung có tác dụng tích cực đối với việc thúc đẩy quan hệ hợp tác trên mọi lĩnh vực giữa hai nước, trong đó có quan hệ kinh tế - thương mại. Bên cạnh ý nghĩa chính trị, Hiệp ước biên giới trên bộ ký kết ngày 30/12/1999 còn có tác dụng tạo điều kiện thuận lợi cho việc quản lý tốt mậu dịch biên giới theo thỏa thuận giữa hai đồng chí Thủ tướng tháng 10 năm 1998, từ đó góp phần thúc đẩy quan hệ thương mại chính ngạch nhằm đạt mục tiêu phấn đấu 2 tỷ đô la Mỹ trong năm nay. Trong chuyến đi thăm Việt Nam mới đây, Thủ tướng Trung Quốc Chu Dung Cơ và Thủ tướng Việt Nam Phan Văn Khải đã đạt được những thỏa thuận cụ thể thúc đẩy quan hệ kinh tế - thương mại giữa hai nước. Đây là quyết tâm to lớn của lãnh đạo hai nước, thể hiện ý chí chính trị cũng như mong muốn của cả hai bên giải quyết những khó khăn, đẩy mạnh hơn nữa quan hệ kinh tế - thương mại song phương.
Về mặt pháp lý, Việt Nam và Trung Quốc đã ký nhiều Hiệp định hợp tác kinh tế thương mại. Tháng 10/1998 hai nước đã ký hiệp định về mậu dịch biên giới, nhằm chấn chỉnh những hiện tượng không lành mạnh: trốn thuế, lậu thuế ở vùng biên giới giữa hai nước, tạo điều kiện thuận lợi cho thương mại chính ngạch phát triển và tháng 12/1999 hai bên đã ký Hiệp định khuyến khích
và bảo hộ đầu tư nhằm thúc đẩy hơn nữa hợp tác đầu tư giữa hai nước. Năm 1995, Ủy ban hợp tác kinh tế - thương mại Việt - Trung được thành lập. Đặc biệt là những thỏa thuận cụ thể giữa hai đồng chí Thủ tướng trong tháng 12/1999 và những chỉ đạo khẩn trương sát sao của Chính phủ hai nước nhằm nghiên cứu và đưa những dự án hợp tác đi vào cuộc sống đang tạo điều kiện rất thuận lợi cho hợp tác kinh tế - thương mại Việt - Trung phát triển.
Có thể bạn quan tâm!
- Triển vọng và những giải pháp nhằm thúc đẩy quan hệ kinh tế - thương mại giữa Việt Nam và Trung Quốc - 1
- Triển vọng và những giải pháp nhằm thúc đẩy quan hệ kinh tế - thương mại giữa Việt Nam và Trung Quốc - 2
- Cán Cân Thương Mại Chính Ngạch Việt - Trung 1991-1999 (Triệu Đô La Mỹ)
- Triển vọng và những giải pháp nhằm thúc đẩy quan hệ kinh tế - thương mại giữa Việt Nam và Trung Quốc - 4
- Triển vọng và những giải pháp nhằm thúc đẩy quan hệ kinh tế - thương mại giữa Việt Nam và Trung Quốc - 5
Xem toàn bộ 56 trang tài liệu này.
Phát triển quan hệ kinh tế - thương mại Việt - Trung là phù hợp với nhu cầu khách quan và chiến lược kinh tế đối ngoại của cả hai nước. Ba vùng tam giác trong phát triển quan hệ kinh tế đối ngoại của Trung Quốc là: tiểu tam giác (chỉ Trung Quốc đại lục, Hồng kông và Đài Loan), trung tam giác (chỉ các nước láng giềng: ASEAN và Hàn Quốc), và các đại tam giác (chỉ các nước Trung Quốc, Mỹ, Nhật Bản và các nước phát triển về kinh tế). Trung Quốc xác định rõ chiến lược thúc đẩy quan hệ kinh tế với tiểu tam giác, liên hợp với trung tam giác và quan hệ với đại tam giác. Như vậy việc phát triển quan hệ kinh tế với các nước láng giềng, trong đó có Việt Nam sẽ tạo cơ sở cho Trung Quốc tham gia nhiều hơn vào những hoạt động kinh tế quốc tế, thể hiện việc đẩy mạnh quan hệ kinh tế thương mại với các nước phát triển kinh tế.
Đối với Việt Nam, việc phát triển quan hệ kinh tế thương mại với Trung Quốc chẳng những phù hợp với đường lối đối ngoại "làm bạn với các nước", mà còn phục vụ cho chiến lược phát triển kinh tế của đất nước: Việt Nam chú trọng mối quan hệ với các nước láng giềng nhằm tạo ra môi trường xung quanh hòa bình ổn định, góp phần giữ vững an ninh của đất nước và tạo điều kiện thuận lợi cho công cuộc đổi mới được tiến hành thuận lợi. Về kinh tế, mục tiêu của công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa là nhằm tăng sức sản xuất của cả xã hội, trong đó có các nhà máy công nghiệp nhẹ sử dụng một số nguyên liệu nhập từ Trung Quốc. Việc Trung Quốc và Việt Nam trở thành thành viên của WTO không ảnh hưởng nhiều đến quan hệ thương mại giữa hai nước do cơ cấu thương mại (loại hàng và chất lượng hàng) giữa hai nước hoàn toàn khác với cơ cấu thương mại giữa Trung Quốc và Việt Nam với các thành viên WTO khác. Thêm vào đó, hàng hóa của Trung Quốc và Việt Nam xuất sang thị trường của nhau có lợi thế hơn so với hàng hóa các nước khác do có lợi thế về giá vận chuyển thấp.
Về địa lý, Việt Nam và Trung Quốc là hai nước láng giềng gần gũi do đó có những thuận lợi về giao thông vận tải, trong quan hệ thương mại không cần thanh toán bằng ngoại tệ mạnh mà có thể thanh toán bằng đồng địa phương, tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp đẩy mạnh buôn bán hàng hóa.
Tóm lại, dựa trên cơ sở vững chắc về chính trị, pháp lý, kinh tế, và điều kiện địa lý, với quyết tâm cao của cả hai nước trong thời gian tới quan hệ kinh tế - thương mại Việt -Trung sẽ phát triển cả về chiều rộng lẫn chiều sâu, góp phần vào sự phát triển kinh tế của mỗi nước sự thịnh vượng chung của cả khu vực.
II. NHỮNG GIẢI PHÁP
Mặc dù các hạot động kinh tế, thương mại, đầu tư giữa Việt Nam và Trung Quốc trong thời gian vừa qua là khá sôi động, nhưng những kết quả đạt
được trong lĩnh vực kinh tế thương mại chưa tương xứng với tiềm năng của hai nước. Để có thể phát triển quan hệ kinh tế - thương mại giữa Việt Nam và Trung Quốc là một tầm cao mới, cần phải tiếp tục giải quyết những vấn đề sau đây:
Thứ nhất, cần xác định về mặt chiến lược Việt Nam và Trung Quốc là hai thị trường trọng điểm của nhau. Trung Quốc với ưu thế về kỹ thuật và công nghệ có thể tham gia đấu thầu các công trình sử dụng vốn ODA của Việt Nam trong lĩnh vực xây dựng cơ sở hạ tầng, giao thông vận tải, năng lượng, vật liệu xây dựng, nông nghiệp... Việt Nam là thị trường cửa ngõ để Trung Quốc tăng cường buôn bán với các nước Đông Nam Á đồng thời Việt Nam với tiềm năng về các nguồn nguyên nhiên liệu, khoáng sản có thể cung cấp cho các ngành công nghiệp Trung Quốc. Do đó hai bên cần đánh giá đầy đủ tầm quan trọng và chiến lược phát triển lâu dài của mối quan hệ kinh tế - thương mại giữa hai nước để có chính sách phù hợp.
Thứ hai, mặc dù tốc độ tăng trưởng kim ngạch xuất nhập khẩu giữa hai nước tăng nhanh, nhưng tỷ trọng kim ngạch trong tổng số kim ngạch xuất nhập khẩu của mỗi nước còn thấp (Trung Quốc chưa đạt 1%, Việt Nam trên 10%). Cán cân giữa xuất khẩu và nhập khẩu còn mất cân đối nghiêm trọng, theo hướng nhập siêu từ phái Việt Nam ngày càng tăng không có lợi cho việc thúc đẩy quan hệ thương mại phát triển cân bằng, đồng đều giữa hai nước. Do đó hai nước cần sớm xây dựng thỏa thuận khung và danh mục cân đối những mặt hàng chủ lực xuất nhập khẩu, có các chính sách và biện pháp để khuyến khích xuất khẩu, cân bằng cán cân thương mại, nâng tỷ trọng hàng hóa xuất nhập khẩu theo con đường chính ngạch lên ít nhất từ 70% - 80%.
Thứ ba, hoạt động kinh tế thương mại tại các cửa khẩu biên giới Việt - Trung trong thời gian qua rất sôi động, đóng góp đáng kể vào kim ngạch xuất nhập khẩu giữa hai nước và phát triển kinh tế địa phương. Tuy nhiên, chính sách quản lý và phát triển kinh tế biên mậu giữa hai nước chưa kịp thời, chưa đồng bộ, một số chính sách không sát thực tế, chưa quan tâm đến lợi ích lâu dài cũng gây ảnh hưởng đến việc giao lưu kinh tế giữa hai bên. Trong thời gian tới, hai bên cần tiếp tục trao đổi thống nhất về chính sách mậu dịch biên giới nhằm đảm bảo lợi ích của doanh nghiệp hai nước trong trao đổi hàng hóa và hợp tác kinh doanh, chống buôn lậu, hàng giả...
Thứ tư, qua khảo sát thực tế cho thấy, thông tin về thị trường, đối tác và các mối quan hệ kinh doanh lâu dài, ổn định giữa doanh nghiệp hai bên, đặc biệt là các doanh nghiệp lớn còn rất hạn chế. Vì vậy, cần tăng cường công tác xúc tiến thương mại, đầu tư nhằm giúp doanh nghiệp hai nước có thêm sự hiểu biết lẫn nhau, xây dựng mối quan hệ hợp tác lâu dài, tiếp cận các cơ hội đầu tư, kinh doanh để thực hiện các dự án đầu tư, các hợp đồng kinh tế mới ở quy mô lớn hơn, hiệu quả hơn trong lĩnh vực có nhiều tiềm năng.
Ngoài những vấn đề phải giải quyết ở trên, trong phần giải quyết này, chúng ta cần phải xét đến ba trở ngại lớn nữa trong quan hệ kinh tế thương mại Việt - Trung và đưa ra những hướng đi phù hợp đó là:
Thứ nhất, các doanh nghiệp hai nước chưa hiểu biết nhau nhiều như đã nêu ở trên. Do vậy, thay vì trao đổi hàng hóa theo nghị định thư là việc mở rộng buôn bán theo cơ chế thị trường, các bên cần tổ chức nhiều hội chợ triển lãm và tăng cường tiếp xúc để tìm ra phương pháp buôn bán vừa phù hợp với thông lệ quốc tế, vừa đúng với luật pháp của mỗi quốc gia.
Thứ hai, một số vấn đề thuộc về nghiệp vụ - kỹ thuật thương mại và đầu tư quốc tế chưa được giải quyết, trước hết là kỹ thuật thanh toán và vận tải quốc tế. Các doanh nghiệp ở miền Nam Trung Quốc vẫn chưa quen với phương thức thanh toán L/C giữa các cảng Việt Nam và cảng Trung Quốc chưa có sự hợp tác theo đúng thông lệ hàng hải quốc tế.
Thứ ba, chưa thực hiện được việc kiểm tra và đánh giá chất lượng hàng hóa qua biên giới.
Dù sao, đây cũng chỉ là những trở ngại về mặt kỹ thuật, sẽ được khắc phục dần dần, từng bước. Theo chúng tôi, điều đáng quan tâm hơn là những trở ngại do đặc thù phát triển kinh tế và chính sách kinh tế đối ngoại của Trung Quốc đối với triển vọng phát triển kinh tế của Việt Nam. Người ta thấy rõ là hầu hết các chủng loại hàng hóa của Trung Quốc hoàn toàn giống với Việt Nam, nước ta hoàn toàn có đủ khả năng để sản xuất chúng và sự có mặt của chúng trên thực tế đã thu hẹp, thậm chí tiêu diệt một số ngành sản xuất trong nước. Đây còn là vấn đề sẽ có phương hại trực tiếp đến định hướng xuất khẩu của Việt Nam hàng Trung Quốc vào Việt Nam như một hồi chuông dóng lên báo hiệu sự hiện diện của một địch thủ cạnh tranh đáng sợ không chỉ trên thị trường khu vực châu Á - Thái Bình Dương mà còn ở ngay trên thị trường Việt Nam. Cả Việt Nam và Trung Quốc đều trong quá trình chuyển sang nền kinh tế thị trường, những yêu cầu về vốn, thị trường, kỹ thuật công nghệ và kinh nghiệm quản lý của Trung Quốc thường trùng hợp với Việt Nam và dĩ nhiên cuộc cạnh tranh quyết liệt giữa Việt Nam và Trung Quốc sẽ diễn ra cả trong lĩnh vực thu hút vốn đầu tư nước ngoài, chuyển giao công nghệ và hợp tác về khoa học - kỹ thuật. Tuy nhiên, xu hướng hợp tác cùng phát triển sẽ trở thành hành động chung cho cả hai nước. Những cuộc viếng thăm của các lãnh tụ cao nhất hai nước trong những năm gần đây đã khẳng định điều này. Con đường phát triển quan hệ giữa hai nước chỉ mới bắt đầu. Dù sao những kinh nghiệm cải cách ở Trung Quốc là rất gần vào có ý nghĩa thiết thực đối với công cuộc đổi mới nền kinh tế Việt Nam. Sự bổ sung của hai nền kinh tế như vốn một thời gian đã phát huy hiệu quả chắc chắn sẽ khiến cho người ta dự cảm tới những triển vọng tốt đẹp về sự hợp tác tương lai giữa hai nước.
KẾT LUẬN
Trong thời gian chín năm qua, mối quan hệ giữa Việt Nam và Trung Quốc đã phát triển mạnh mẽ trên mọi lĩnh vực: chính trị, kinh tế, văn hóa, giáo dục với nhiều hình thức hợp tác phong phú. Cùng với đà phát triển đó, quan hệ thương mại giữa hai nước đã phát triển vượt bậc với tổng kim ngạch thương mại hai chiều ngày càng tăng. Nhưng bên cạnh đó, còn tồn tại một số vấn đề cần phải giải quyết trong quan hệ thương mại: trốn thuế, lậu thuế, cán cân thương mại không cân bằng... Nhìn chung, tỷ trọng giá trị thương mại Việt - Trung còn thấp, chưa thể hiện hết tiềm năng của cả hai bên, chưa tương xứng với quan hệ chính trị giữa Việt Nam và Trung Quốc.
Cơ sở phát triển quan hệ kinh tế thương mại Việt - Trung là vững chắc, trong đó có cả những nhân tố khách quan và nhân tố chủ quan. Trong số các nhân tố chủ quan, nhân tố ý chí chính trị của cả hai bên là nhân tố quan trọng nhất, có tính chất quyết định đối với việc phát triển quan hệ kinh tế - thương mại giữa Việt Nam và Trung Quốc trong thời gian tới.
Triển vọng quan hệ kinh tế - thương mại Việt - Trung là xán lạn, chứng
tỏ mối quan hệ Việt - Trung ngày càng phát triển.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1]. "Tăng cường thúc đẩy sự phát triển của quan hệ kinh tế - thương mại Việt - Trung". Phạm Hoàng Chương - tham luận tại Hội thảo Quan hệ kinh tế - thương mại Việt - Trung lần thứ 2, Hà Nội, 18-20/1/1999.
[2]. Nghiên cứu Trung Quốc: số 6(22)-1998, số 1(29)-2000, số 5(10)-1997. [3]. Nghiên cứu quốc tế: số 31, số 32/2000.
[4]. Nghiên cứu kinh tế: số 230 tháng 7/1997.
[5]. Thương mại, số 5 năm 1999, số 19-1999, số 2-1997.
[6]. Tuần báo Quốc tế, số 29, 16-7-1997, số 11-27/9/1999, số 15, 26-10-1998.
[7]. Đầu tư ngày 6-2-1997.
[8]. Nguyễn Minh Hằng: Quan hệ kinh tế đối ngoại Trung Quốc thời kỳ mở
cửa. Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 1996.
[9]. Báo Hà Nội mới: 6-4-1997, 11-3-1997, 31-12-1997, 6-4-1997.
[10]. Firancial Times tại Hà Nội trong tin TKTG, gnày 27-4-1998. [11]. Tạp chí châu Á - Thái Bình Dương (tháng 3-2000)