là thế mạnh xuất khẩu của Việt Nam. Việc mở các điểm buôn bán biên giới trong những năm cuối thập kỷ 80 và đầu thập kỷ 90, nhất là việc hai nước chính thức khôi phục quan hệ ngoại giao đã tạo điều kiện thuận lợi cho thương mại hai nước phát triển mạnh, đáp ứng nhu cầu của cả hai bên về những mặt hàng tiêu dùng và nguyên vật liệu.
Hai là, ngoài buôn bán hàng tiêu dùng và nguyên vật liệu, hai bên đã tiến hành các loại máy móc dùng cho sản xuất. Dĩ nhiên, quá trình mua bán máy móc diễn ra dài hơn, thông qua nhiều khâu đoạn hơn, do đó làm chậm lại tốc độ tăng trưởng ngoại thương giữa hai bên.
Ba là, hai bên đã ký kết nhiều hiệp định, tạo điều kiện pháp lý cho thương mại hai nước phát triển. Dựa trên các hiệp định đó, hai bên khuyến khích các doanh nghiệp tăng cường quan hệ trực tiếp thông qua các chuyến khảo sát, tìm hiểu thị trường và hội chợ triển lãm.
Bốn là, hai nước áp dụng nhiều biện pháp và nhiều kênh trao đổi hàng hóa. Các biện pháp hiện đang được áp dụng là: thương mại thông thường, gia công, hàng đổi hàng, cung cấp thiết bị thanh toán bằng sản phẩm... Trao đổi thương mại được thực hiện thông qua nhiều kênh khác nhau: trao đổi của các cư dân biên giới, xuất nhập khẩu chính ngạch và tiểu ngạch, dịch vụ chuyển khẩu, kho ngoại quan.
Năm là, việc mua bán hàng hóa giữa các tổng công ty hoặc tập đoàn lớn giữa hai nước ngày càng tăng, góp phần đáng kể vào việc gia tăng thương mại giữa hai nước.
b. Cơ cấu hàng hóa vừa có tính chất bổ sung cho nhau vừa có tính
cạnh tranh nhau.
Việt Nam xuất sang Trung Quốc 4 nhóm hàng chủ yếu:
- Nhóm A: nguồn nhiên liệu gồm: than đá, dầu thô, quặng sắt cromít, dược liệu, các loại tinh dầu, cao su thiên nhiên.
- Nhóm B: lương thực, nông sản, rau quả, sắn lát, các loại đỗ, hoa quả
nhiệt đới, dứa quả, chuối, chôm chôm, xoài...
- Nhóm C: thủy hải sản: thủy sản tươi sống, đông lạnh, động vật nuôi:
rắn, ba ba, rùa.
- Nhóm D: hàng tiêu dùng; đồ gỗ gia dụng cao cấp, giầy dép, xà phòng. Trung Quốc xuất sang Việt Nam chủ yếu chia làm 5 nhóm hàng:
- Nhóm A: máy móc thiết bị toàn bộ: nhà máy xi măng lò đứng, nhà máy đường.
- Nhóm B: máy móc cơ khí, phương tiện vận tải, máy móc thiết bị y tế, máy
móc dụng cụ chính xác, máy móc thiết bị ngành dệt, máy móc nông nghiệp.
- Nhóm C: nguyên nhiên liệu: sản phẩm dầu mỏ, xi măng, sắt thép, kính xây dựng các loại, vật liệu xây dựng hóa chất, phẩm nhuộm, thuốc trừ sâu, phân bón.
- Nhóm D: lương thực, thực phẩm, hoa quả: bột mỳ, đường, dầu thực vật, táo, lê giống cây trồng.
- Nhóm E: hàng tiêu dùng, thuốc chữa bệnh, hàng điện tử, may mặc, đồ chơi...
Cơ cấu hàng hóa như trên chẳng những có tính chất bổ sung cho nhau mà còn phù hợp với trình độ phát triển kinh tế của cả hai nước. Cơ cấu xuất khẩu của Việt Nam chủ yếu là sản phẩm nông nghiệp và nguyên nhiên liệu, do đó những sản phẩm xuất khẩu của Việt Nam đáp ứng được nhu cầu của nền kinh tế và đời sống nhân dân Trung Quốc, đặc biệt là các tỉnh có chung biên giới với Việt Nam. Hiện nay, cùng với Singapore, Indonesia, Malaysia, Việt Nam là một trong những bạn hàng chủ yếu của tỉnh Hải Nam (Trung Quốc). Trong hơn 20 năm qua, sự phát triển kinh tế của tỉnh Vân Nam (Trung Quốc) chủ yếu dựa vào hợp tác kinh tế với Thái Lan, Việt Nam, Lào và Myanmar. Tổng giá trị biên mậu của hai tỉnh Vân Nam và Quảng Tây chiếm tới hơn 50% tổng giá trị biên mậu của cả Trung Quốc, trong đó có một phần đóng góp không nhỏ của biên mậu Việt - Trung. So với Việt Nam, Trung Quốc ở trình độ phát triển kinh tế cao hơn, những hàng hóa máy móc nhỏ của Trung Quốc phù hợp với điều kiện Việt Nam; phát triển kinh tế trên cơ sở nền sản xuất nhỏ. Bên cạnh đó, một số mặt hàng tiêu dùng của Trung Quốc đáp ứng được nhu cầu của Việt Nam.
Cơ cấu hàng hóa thương mại Việt - Trung cũng tương tự như cơ cấu thương mại giữa Trung Quốc với đại bộ phận các nước ASEAN khác. Trừ Singapore, sản phẩm chủ yếu trong xuất khẩu của các nước ASEAN khác sang Trung Quốc là: gỗ, gạo, cao su, thiên nhiên, đồng, nhôm, dầu thực vật... Trong tương lai, một số nước Đông Nam Á trở thành một trong những nơi cung cấp nguyên liệu cho nền công nghiệp của Trung Quốc. Bên cạnh đó, Đông Nam Á là một trong những thị trường lý tưởng nhất cho Trung Quốc xuất một số sản phẩm hàng tiêu dùng và sản phẩm nông nghiệp.
Một điều rõ ràng là Việt Nam và Trung Quốc đều là những nước đang phát triển về kinh tế, cơ cấu hàng hóa xuất khẩu chủ yếu là hàng gia công, sản phẩm sơ chế, tỷ lệ khoa học kỹ thuật trong mỗi giá trị sản phẩm thấp, dựa vào sức lao động rẻ, do đó không thể không dẫn đến hiện tượng cạnh tranh với nhau. Đây là một điều bình thường trong quan hệ kinh tế quốc tế. Sự cạnh tranh này không gây nhiều cản trở đối với sự phát triển thương mại Việt - Trung. Như đã phân tích trên, tốc độ tăng trưởng bình quân vẫn cao hơn tốc độ tăng trưởng bình quân về ngoại thương của cả hai nước trong cùng thời gian.
c. Thương mại tiểu ngạch (buôn bán biên giới) đóng góp một phần đáng kể vào tổng kim ngạch thương mại giữa hai nước
Thương mại tiểu ngạch Việt - Trung phát triển mạnh kể từ năm 1989 khi Chính phủ hai nước cho phép nhân dân qua lại thăm viếng lẫn nhau vào trao đổi hàng hóa thiết yếu. Sau khi hai nước chính thức bình thường hóa quan hệ ngoại giao năm 1991, thương mại tiểu ngạch phát triển mạnh mẽ với quy mô và số lượng càng lớn. Tuy các nhà nghiên cứu đưa ra con số khác nhau về tổng giá trị hàng hóa buôn bán qua biên giới giữa hai nước nhưng có thể thấy tổng giá trị, thương mại tiểu ngạch là một con số không nhỏ so với tổng giá trị thương mại chính ngạch. Sở dĩ có tình trạng như vậy là do:
Một là, một số hàng hóa hoặc có số lượng ít hoặc có phẩm chất kém,
không thể tiến hành trao đổi qua thương mại chính ngạch.
Hai là, một số kẻ buôn bán lợi dụng công tác quản lý buôn bán qua đường biên chưa tốt để tiến hành buôn lậu kiếm lợi nhuận.
Ba là, việc thanh toán liền giữa hai nước được tiến hành linh hoạt, có thể bằng hình thức hàng đổi hàng. Trong khi đó, việc thanh toán trong thương mại chính ngạch phải tuân theo những quy định có tính pháp quy của từng nước. Chính vì lý do đó mà cho dù năm 1993 ngân hàng nhà nước Việt Nam và ngân hàng Nhân dân Trung Quốc đã ký Hiệp định thanh toán và hợp tác, trong đó quy định rõ những hình thức thanh toán phục vụ cho xuất khẩu giữa hai nước nhưng giá trị hàng hóa được thanh toán qua ngân hàng còn nhỏ so với tổng số kim ngạch giữa hai nước.
d. Cán bộ thương mại không cân bằng
Bảng 2: Cán cân thương mại chính ngạch Việt - Trung 1991-1999 (triệu đô la Mỹ)
XK của Việt Nam | NK của Việt Nam | Cán cân thương mại | |
1991 | 10,23 | 21,40 | -11,17 |
1992 | 72,71 | 106,36 | -33,65 |
1993 | 122,63 | 276,00 | -144,37 |
1994 | 191,16 | 341,66 | -150,50 |
1995 | 332,06 | 720,13 | -388,07 |
1996 | 308,48 | 842,15 | -553,67 |
1997 | 357,10 | 1078,54 | -721,44 |
1998 | 120 | 610 | -490 |
5 tháng đầu | 91,51 | 316,76 | -225,25 |
năm 1999 |
Có thể bạn quan tâm!
- Triển vọng và những giải pháp nhằm thúc đẩy quan hệ kinh tế - thương mại giữa Việt Nam và Trung Quốc - 1
- Triển vọng và những giải pháp nhằm thúc đẩy quan hệ kinh tế - thương mại giữa Việt Nam và Trung Quốc - 2
- Triển vọng và những giải pháp nhằm thúc đẩy quan hệ kinh tế - thương mại giữa Việt Nam và Trung Quốc - 4
- Triển vọng và những giải pháp nhằm thúc đẩy quan hệ kinh tế - thương mại giữa Việt Nam và Trung Quốc - 5
- Triển vọng và những giải pháp nhằm thúc đẩy quan hệ kinh tế - thương mại giữa Việt Nam và Trung Quốc - 6
Xem toàn bộ 56 trang tài liệu này.
Nhìn vào bảng trên chúng ta thấy cùng với đà tăng của kim ngạch thương mại Việt - Trung, thâm hụt thương mại của Việt Nam đối với Trung Quốc ngày càng tăng. Đặc biệt là năm 1998 con số thâm hụt thương mại Việt - Trung đối với Việt Nam tăng trong khi tổng nhập siêu của Việt Nam đã giảm bớt 400 triệu đô la Mỹ. Tính trung bình, giá trị nhập khẩu của Việt Nam gấp 2,4 lần giá trị hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam sang Trung Quốc. Trên thực tế, hiện tượng nhập siêu của Việt Nam là hiện tượng thông thường trong quan hệ thương mại Việt - Trung từ thập kỷ từ 50 đến nay. Trong suốt thời gian ba thập kỷ 50, 60 và 70 Việt Nam đạt được xuất siêu trong thương mại với Trung Quốc trong bốn năm: 1958, 1959, 1976 và 1977. Trong những năm còn lại, Việt Nam luôn ở trong tình trạng nhập siêu. Sở dĩ có tình trạng là do:
Một là, một số nguyên vật liệu, những máy móc nhỏ và một số mặt hàng tiêu dùng của Trung Quốc đáp ứng được nhu cầu của Việt Nam. Vượt qua cuộc khủng hoảng về kinh tế cuối thập niên 80, công cuộc đổi mới về kinh tế của Việt Nam tiếp tục thu được những thành tựu to lớn, sản xuất ngày một được nâng cao. Trong bối cảnh đó, những nguyên vật liệu như hóa chất, sợi bông cần
thiết cho công nghiệp nhẹ, những máy móc như máy phát điện nhỏ, máy thủy lợi nhỏ, một số hàng hóa tiêu dùng của Trung Quốc với giá rẻ đã đáp ứng được nhu cầu của Việt Nam.
Hai là, cơ cấu hàng hóa xuất khẩu cảuvn chủ yếu là những nguyên liệu thô và sản phẩm nông nghiệp có giá trị thấp và thường bị tác động của giá thị trường thế giới theo xu hướng giảm. Do đó, trong xuất khẩu của Việt Nam nói chung đã có năm có tình trạng khối lượng xuất khẩu tăng nhưn giá trị xuất khẩu không tăng, thậm chí còn giảm đi.
Ba là, do hạn chế trong hạn ngạch nhập khẩu dẫn đến những hạn chế trong việc Trung Quốc nhập khẩu một số mặt hàng mà Việt Nam có ưu thế như gạo, cao su thiên nhiên...
e. Tỷ trọng trong tổng kim ngạch ngoại thương mỗi nước còn thấp
Quan hệ thương mại giữa Việt Nam và Trung Quốc trong những năm qua phát triển nhanh chóng, nhưng tổng giá trị thương mại chính ngạch và tiểu ngạch chỉ chiếm tỷ lệ rất nhỏ trong tổng kim ngạch ngoại thương của mỗi nước. Theo tính toán, tổng giá trị thương mại chính ngạch hai chiều chỉ chiếm 7% tổng kim ngạch thương mại của Việt Nam và 0,4% tổng kim ngạch ngoại thương của Trung Quốc. Việt Nam chỉ là bạn hàng thứ 27 của Trung Quốc. Sự đóng góp của Việt Nam trong thương mại ASEAN - Trung Quốc cũng là rất nhỏ bé. ASEAN là bạn hàng lớn thứ sáu sau Trung Quốc với tổng giá trị thương mại chiếm 13% tổng kim ngạch ngoại thương của Trung Quốc lớn hơn nhiều lần so với tổng giá rị thương mại Việt - Trung.
2. Cơ sở phát triển thương mại Việt - Trung
Một là, ý chí chính trị của hai nước. Trong chuyến đi thăm Trung Quốc đầu năm nay của đồng chí Lê Khả Phiêu, hai đồng chí lãnh đạo cao cấp nhất của hai nước đã thỏa thuận về những nguyên tắc chỉ đạo trong quan hệ Việt - Trung trong thời gian tới: láng giềng hữu nghị, hợp tác toàn diện, ổn định lâu dài, hướng tới tương lai. Những nguyên tắc này có ý nghĩa vô cùng to lớn, cho thấy rõ khung quan hệ cũng như mục tiêu trong quan hệ giữa Việt Nam và Trung Quốc, do đó có tác dụng tích cực đối với việc thúc đẩy quan hệ hợp tác nói chung giữa hai nước và quan hệ thương mại nói riêng. Tháng 10/1998 lãnh đạo hai bên Việt Nam và Trung Quốc đã bày tỏ quyết tâm đưa tổng giá trị thương mại chính ngạch lên đến 2 tỷ đô la vào năm 2000. Trong chuyến đi thăm Việt Nam mới đây Thủ tướng Trung Quốc Chu Dung Cơ và Thủ tướng Việt Nam Phan Văn Khải đã một lần nữa khẳng định quyết tâm thực hiện mục tiêu này. Đây là quyết tâm to lớn của lãnh đạo hai nước thể hiện ý chí chính trị cũng như mong muốn của cả hai bên đẩy mạnh hơn nữa quan hệ thương mại giữa hai nước. Chính ý chí chính trị này là nhân tố quyết định những vấn đề tồn tại trong quan hệ thương mại giữa hai nước.
Hai là, đã tạo dựng được cơ sở pháp lý cho hoạt động thương mại giữa hai nước. Như trên đã trình bày, Việt Nam và Trung Quốc đã ký nhiều Hiệp định về hợp tác kinh tế thương mại giữa hai nước. Đặc biệt là, hai nước đã ký Hiệp định về buôn bán ở vùng biên giới, nhằm chấn chỉnh những hiện tượng không lành mạnh: trốn thuế, lậu thuế ở vùng biên giới giữa hai nước, tạo điều kiện thuụn lợi cho thương mại chính ngạch phát triển.
Ba là, phát triển quan hệ thương mại Việt- Trung là phù hợp với chiến lược kinh tế đối ngoại của cả hai nước. Ba vùng tam giác trong phát triển quan hệ kinh tế đối ngoại là: tiểu tam giác (chỉ Trung Quốc đại lục, Hồng Kông và Đài Loan), trung tam giác (chỉ các nước láng giềng: ASEAN và Hàn Quốc), và đại tam giác (chỉ các nước Trung Quốc, Mỹ, Nhật Bản và các nước phát triển về kinh tế). Trung Quốc xác định rõ chiến lược thúc đẩy quan hệ kinh tế với tiểu tam giác, liên hiệp với trung tam giác và quan hệ với đại tam giác. Như vậy, việc phát triển quan hệ kinh tế với các nước láng giềng, trong đó có Việt Nam sẽ tạo cơ sở cho Trung Quốc tham gia nhiều hơn vào những hoạt động kinh tế quốc tế, thể hiện qua việc đẩy mạnh quan hệ kinh tế thương mại với các nước phát triển về kinh tế.
Đối với Việt Nam, việc phát triển quan hệ kinh tế thương mại với Trung Quốc chẳng những phù hợp với đường lối đối ngoại "là bạn đối với tất cả các nước", mà còn phục vụ cho chiến lược phát triển kinh tế của đất nước: Việt Nam chú trọng mối quan hệ với các nước láng giềng nhằm tạo ra môi trường xung quanh hòa bình ổn định, góp phần giữ vững an ninh của đất nước và tạo điều kiện thuận lợi. Về kinh tế, mục tiêu của công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa là nhằm tăng sức sản xuất của cả xã hội, trong đó có các nhà máy công nghiệp nhẹ sử dung một số nguyên vật liệu nhập từ Trung Quốc.
Bốn là, phát triển quan hệ thương mại là phù hợp với nhu cầu khách quan của cả hai bên. Như đã phân tích ở trên, cơ cấu hàng hóa xuất nhập khẩu Việt - Trung có tính chất bổ sung cho nhau. Là một nước có kỹ thuật tiên tiến hơn và bắt đầu tích lũy dự trữ ngoại tệ lớn, Trung Quốc có thể giúp Việt Nam nhiều mặt về kinh tế, kỹ thuật. Về phần mình, Việt Nam tạo ra một thị trường đáng kể cho nhiều mặt hàng, nhất là máy móc nhỏ phục vụ cho nông nghiệp Trung Quốc.
Năm là, bên cạnh hợp tác song phương, hai bên còn có thể đẩy mạnh quan hệ thương mại qua các kênh đa phương, thông qua quan hệ kinh tế và thương mại ASEAN - Trung Quốc, tổ chức hợp tác kinh tế châu Á - Thái Bình Dương (APEC), và trong tương lai thông qua tổ chức thương mại thế giới (WTO) khi hai nước trở thành thành viên.
Trong những nhân tố trên, nhân tố khách quan là nhu cầu của cả hai bên; nhân tố ý chí chính trị là nhân tố chủ quan trọng nhất, quyết định sự phát triển của quan hệ thương mại Việt - Trung trong thời gian tới.
3. Diễn biến của trao đổi mậu dịch song phương
Theo thông lệ và tập quán quốc tế, để cho hoạt động trao đổi hàng hóa song phương được triển khai dựa trên cơ sở pháp lý, hai nước Việt Nam - Trung Quốc đã ký Hiệp định thương mại ngay từ khi quan hệ chính trị giữa hai nước được bình thường hóa. Thời gian sau đó, hai nước còn ký một số Hiệp định khác có liên quan đến quan hệ thương mại song phương. Có thể nêu ra đây một số Hiệp định như: Hiệp định về vận tải hàng hải và vận tải đường sắt; Hiệp định về hàng hóa quá cảnh giữa hai nước; Hiệp định về thành lập Ủy ban kinh tế - thương mại Việt Nam - Trung Quốc; Hiệp định về đảm bảo chất lượng hàng hóa
xuất nhập cảnh và công nhận lẫn nhau; Hiệp định vận tải đường bộ; Hiệp định tránh đánh thuế hai lần và chống lậu thuế...
Cả Trung Quốc và Việt Nam đều có nhu cầu trao đổi hàng hóa. Mấy năm trước khi quan hệ hai nước được bình thường hóa, trên vùng biên giới đất liền giữa hai nước đã diễn ra một số hoạt động buôn bán của cư dân hai nước với nhau, tất nhiên là phi chính thức và bị giới hạn nhiều. Từ sau khi quan hệ hai nước được bình thường hóa và Hiệp định thương mại song phương được ký kết thì quan hệ thương mại giữa Việt Nam và Trung Quốc bước vào một thời kỳ mới phát triển và mở rộng nhanh chóng, kim ngạch xuất khẩu hai chiều tăng lên nhanh chóng, năm sau cao hơn năm trước. Điều đó phản ánh qua một số con số cụ thể dưới đây:
Tổng kim ngạch XNK hai chiều (triệu USD) | |
1990 | 152,54 |
1991 | 270 |
1992 | 280 |
1993 | 690 |
1994 | 758 |
1995 | 1.050 |
1996 | 1.150 |
1997 | 1.240 |
1998 | 1.540 |
1999 | (5 tháng đầu năm) đạt 408.28 |
Các con số nêu ra trong bảng trên không bao gồm giá trị của buôn bán dân
gian và buôn lậu bất hợp pháp qua biên giới mà Nhà nước không kiểm soát được.
Hiện nay Trung Quốc đã trở thành một trong những đối tác thương mại quan trọng của Việt Nam, xuất khẩu của Trung Quốc sang Việt Nam chiếm đến 7% tổng kim ngạch nhập khẩu của Việt Nam, đưa Trung Quốc lên vị trí thứ 7 trong hơn 100 nước và vùng lãnh thổ có quan hệ thương mại với Việt Nam. Trong khi đó, kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang Trung Quốc còn rất nhiều khiêm tốn, mới chỉ chiếm khoảng0,4% trong tổng kim ngạch nhập khẩu của Trung Quốc, đứng ở vị trí thứ 27 trong tổng số hơn 200 quốc gia và vùng lãnh thổ có quan hệ thương mại với Trung Quốc tính đến cuối năm 1998.
Theo số liệu thống kê chưa thật đầy đủ, từ năm 1990-1991 đến năm 1999, Việt Nam đã xuất khẩu sang Trung Quốc, theo con đường chính ngạch và tiểu ngạch, đến hơn 100 nhóm hàng và mặt hàng cụ thể khác nhau. Có thể nêu ra đây một số mặt hàng tiêu biểu: gạo, cao su, hạt điều, cà phê, dầu thô, dầu thực vật, sắn lát, chuối xanh, đồ gỗ gia dụng đã gia công, hải sản, hoa quả đặc sản (xoài, vải thiều...), sản phẩm nông nghiệp và lâm nghiệp, quặng kim loại và sắt phế liệu, ô tô (thuộc dạng tạm nhập tái xuất), một số mặt hàng tiêu dùng hàng ngày như dép nhựa, xà phòng...). Trong số các mặt hàng nêu trên, cao su và hạt điều chiếm tỷ trọng khá lớn trong tổng số mặt hàng của Việt Nam xuất
khẩu ra nước ngoài, hơn nửa tỷ lệ tăng dần hàng năm. Xin nêu mấy con số cụ
thể:
Đơn vị: tấn
1993 | 1994 | 1995 | 1996 | 1999 (5 tháng đầu) | ||||||
Lượng | % | Lượng | % | Lượng | % | Lượng | % | Lượng | % | |
Cao su Hạt điều | 55.707 21,5 | 59,3 | 85.662 31,7 | 65,9 | 104.945 55,7 | 73,3 | 70 | 10,80 |
Các mặt hàng khác như gạo, thủy sản,.. chiếm khoảng 10% trong tổng số mặt hàng đã nêu ở trên của Việt Nam xuất khẩu ra nước ngoài. Điều cần nêu ra ở đây là, đa số các mặt hàng của Việt Nam xuất khẩu sang Trung Quốc đều thuộc dạng thô, hàng qua sơ chế biến rồi mới xuất khẩu còn rất ít, do đó trọng lượng xuất khẩu có khi nhiều nhưng giá trị thu được trong thực tế lại ít. Đây là một thiệt thòi khá lớn cho phía Việt Nam trong việc trao đổi buôn bán với phía Trung Quốc thời gian qua.
Các mặt hàng mà phía Trung Quốc xuất khẩu sang Việt Nam trong mấy năm qua theo con đường chính ngạch và tiểu ngạch là rất phong phú và đa dạng, có đến trên 200 nhóm và mặt hàng cụ thể nghĩa là gấp đôi số mặt hàng Việt Nam xuất khẩu sang Trung Quốc. Có thể nêu ra đây một số nóm và mặt hàng tiêu biểu: sản phẩm hóa chất, thuốc trừ sâu, thiết bị và phương tiện vận tải, thép và phôi thép, máy móc thiết bị cho nhà máy sản xuất xi măng lò đứng, thiết bị máy móc cho ngành sản xuất mía đường, máy móc nông nghiệp và phụ tùng, máy móc thiết bị cho ngành giày da, thiết bị vệ sinh, vật liệu xây dựng, kính dân dụng, gạch hoa các loại, sản phẩm công nghiệp nhẹ và hàng tiêu dùng như: xe đạp và phụ tùng, điện gia dụng các loại, vải và hàng dệt kim, quần áo may sẵn, đồ sứ, văn phòng phẩm, đồ dùng điện tử, đồ chơi trẻ em,... Trong quan hệ buôn bán với Trung Quốc từ sau khi quan hệ chính trị hai nước được bình thường hóa đến nay, chúng ta đã nhập được nhiều thứ cần thiết (như đã nêu ở trên) đáp ứng nhu cầu xây dựng và phát triển kinh tế ở trong nước cũng như nhu cầu về hàng tiêu dùng thông thường của nhân dân lao động. Đồng thời, chúng ta cũng đã bán sang Trung Quốc một số mặt hàng mà ở trong nước sản xuất được với số lượng khác như đã nêu ở trên. Từ khách quan mà xét, đây cũng là một trong những nguyên nhân quan trọng thúc đẩy những ngành nghề có sản phẩm bán sang Trung Quốc phát triển trong thời gian qua.
4. Tình hình buôn bán qua biên giới Việt - Trung
a. Khái quát về tình hình buôn bán qua biên giới Việt Nam - Trung Quốc trong 50 năm qua.
Từ năm 968, Việt Nam trở thành một quốc gia độc lập ở Đông Nam Á, kế từ đó đến nay, Việt Nam đã có mối quan hệ buôn bán qua biên giới với nhiều nước láng giềng, trong đó có Trung Quốc. Tiếp theo các triều đại phong kiến Việt Nam: Lý, Trần, Lê, Nguyễn đã tiếp tục quan hệ buôn bán qua biên giới với các triều đại phong kiến Trung Quốc: Tống, Nguyên, Minh, Thanh. Lúc bấy giờ, buôn bán qua biên giới giữa hai nước Việt - Trung chỉ là sự thông thường nhằm bổ sung cho nhau, với hai hình thức chủ yếu là cống nạp và dân gian.
Bước vào thời kỳ cận đại, Việt Nam trở thành nửa thuộc địa tư bản phương Tây, hai nước Việt Nam và Trung Quốc đã ký "Điều ước Việt Nam (năm 1885)" và "Chương trình hợp tác biên giới (năm 1896)", trong đó, quy định 25 điểm đồn trú tuần tra dọc biên giới chung giữa hai nước cũng chính là điểm họp chợ chung cho dân cư dân hai bờ biên giới.
Năm 1945, sau khi ký kết đại diện thế giới lần thứ 2, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (nay là CNHXHCN Việt Nam) ra đời (2-9-1945), tiếp theo nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa được thành lập (1-10-1949), và chỉ mấy tháng sau đó (18-1-1950) hai nước Việt Nam dân chủ Cộng hòa (dưới đây gọi tắt là Việt Nam) và Cộng hòa nhân dân Trung Hoa (dưới đây gọi tắt là Trung Quốc) đã thiết lập quan hệ ngoại giao, tính đến tháng giêng năm nay vừa tròn 50 năm. Kể từ đó, mở ra thời kỳ mới trong quan hệ hai nước về nhiều mặt, tạo điều kiện cho sự phát triển mạnh mẽ quan hệ kinh tế buôn bán giữa hai nước, trong đó có buôn bán qua biên giới Việt - Trung. Trong khoảng thời gian, từ những năm 50 đến những năm 70, trên tinh thần "vừa là đồng chí, vừa là anh em", hai nước đã ký kết các bản "Nghị định thư buôn bán tiểu ngạch biên giới Việt - Trung" (năm 1955) và "Nghị định thư trao đổi hàng hóa biên giới Việt - Trung (năm 1957)" đã quy định xây dựng 26 điểm giao dịch (19 điểm trên bộ và 7 điểm trên biển) trên biên giới chung của hai nước. Trong khoảng thời gian (1956-1969) mức buôn bán qua biên giới giữa Việt Nam với Quảng Tây trị giá 44,94 NDT. Trong khoảng thời gian 1966 - 1976, ở Trung Quốc đang tiến hành cuộc cách mạng văn hóa, hầu như đóng cửa hoàn toàn với thế giới bên ngoài nên đã ảnh hưởng tới buôn bán qua biên giới giữa Trung Quốc với các nước láng giềng, trong đó có Việt Nam.
Cuối năm 1978, Trung Quốc đưa ra quốc sách cải cách mở cửa, nhưng lúc bấy giờ (1978-1988) mới chú trọng mở cửa khu vực ven biển, chưa chú ý đến mở cửa khu vực biên giới. Đồng thời, từ năm 1979 đến hết thập kỷ 80, quan hệ hai nước Việt Nam và Trung Quốc bước vào thời kỳ không bình thường, biên giới chung giữa hai nước chiến trường thay cho thị trường, những nhân tố đó đã ảnh hưởng đến sự gián đoạn buôn bán qua biên giới hai nước.
Bước sang thập kỷ 90, trên thế giới đã kết thúc thời kỳ chiến tranh lạnh, ở châu Âu các nước xã hội chủ nghĩa lần lượt tan rã, đã ảnh hưởng không nhỏ đến các nước xã hội chủ nghĩa ở châu Á, như Trung Quốc, Việt Nam. Ở Trung Quốc, sau sự kiện Thiên An Môn (4-6-1989) các nước tư bản phương Tây thi hành chính sách hạn chế bao vây đối với Trung Quốc. Đứng trước tình hình biến động trên thế giới và trong nước, Trung Quốc đã điều chỉnh chính sách mở cửa đối ngoại, một mặt Trung Quốc bắt đầu chú trọng cải thiện mối quan hệ thân thiện với các nước láng giềng, mặt khác cùng với việc chú trọng mở cửa khu vực ven biển, bắt đầu mở cửa khu vực ven biên giới, tạo điều kiện thuận lợi cho việc mở cửa buôn bán qua biên giới Trung Quốc với các nước láng giềng trong đó có Việt Nam.
Ở Việt Nam, từ năm 1986 (Đại hội VI) đã đề chính sách đổi mới và mở cửa, muốn là bạn với tất cả, tạo điều kiện cho việc cải thiện mối quan hệ với tất cả các nước, trong đó có các nước láng giềng bao gồm cả Trung Quốc.
Xuất phát từ sự mong muốn cải thiện mối quan hệ của các lãnh đạo và nhân
dân hai nước Việt Nam và Trung Quốc, tháng 11-1991 các nhà lãnh đạo cấp cao của