Trong khuôn khổ bài nghiên cứu này, hiệu quả hoạt động của một điểm sản xuất được hiểu khi quy mô đầu ra tối đa so với đầu vào cho trước. Một đơn vị kinh tế được cho là hiệu quả hơn so với đơn vị khác nếu nó có thể cung cấp hàng hóa dịch vụ nhiều hơn mà không cần sử dụng nhiều tài nguyên hơn (Koopmans (1951)).
1.2.1.2 Phân loại hiệu quả hoạt động
Sử dụng định nghĩa của Koopmans (1951), Debreu (1951) đã đưa ra phương pháp đo lường hiệu quả nhìn dưới góc độ đầu ra – so sánh sản lượng quan sát với sản lượng tối đa có thể đạt được từ cùng một mức độ đầu vào cho phép. Còn G. Shephard (1953) đưa ra phương pháp đo lường hiệu quả nhìn dưới góc độ đầu vào – so sánh mức độ quan sát của đầu vào với đầu vào tối thiểu có thể để sản xuất ra cùng mức độ đầu ra cho phép.
Farrell (1957) đã phân loại nguồn lực dựa trên lý thuyết về hiệu quả sản xuất. Qua đó hiệu quả được phân tách thành hiệu quả kỹ thuật (TE – Technically Efficiency), hiệu quả phân bổ (AE – Allocative Efficiency), hiệu quả kỹ thuật thuần (PTE – Pure Technical Efficiency), hiệu quả quy mô (SE – Scale Efficiency), hiệu quả chi phí (CE
– Cost Efficiency), hiệu quả lợi nhuận (Profit Efficiency)…
Hình 1.2: Hiệu quả kỹ thuật và hiệu quả phân bổ
Có thể bạn quan tâm!
- Trạng thái thanh khoản và hiệu quả hoạt động tại các ngân hàng thương mại Việt Nam - 2
- Cơ Sở Lý Luận Về Trạng Thái Thanh Khoản, Hiệu Quả Hoạt Động Ngân Hàng, Mối Quan Hệ Giữa Trạng Thái Thanh Khoản Và Hiệu Quả Hoạt Động Ngân
- Phương Pháp Tiếp Cận Nguồn Vốn Và Sử Dụng Vốn
- Đánh Giá Các Công Trình Nghiên Cứu Về Mối Quan Hệ Giữa Trạng Thái Thanh Khoản Và Hiệu Quả Hoạt Động Ngân Hàng
- Các Nghiên Cứu Về Hiệu Quả Hoạt Động Ngân Hàng Ở Việt Nam.
- Đánh Giá Các Nghiên Cứu Về Mối Quan Hệ Giữa Trạng Thái Thanh Khoản Và Hiệu Quả Ngân Hàng.
Xem toàn bộ 188 trang tài liệu này.
Nguốn: Farrell (1957)
Nếu một ngân hàng đã cho sử dụng các yếu tố đầu vào, xác định tại điểm P, để sản xuất một đơn vị đầu ra thì phi hiệu quả kỹ thuật của ngân hàng đó được xác định bởi khoảng cách RP - là lượng mà tất cả các đầu vào có thể giảm đi một cách tỷ lệ mà không làm giảm đầu ra. Mức không hiệu quả này thường được biểu diễn theo phần trăm và bằng tỷ số RP/OP, biểu thị tỷ lệ phần trăm mà tất cả các đầu vào có thể giảm. Hiệu quả kỹ thuật (TE) của ngân hàng được đo bằng tỷ số: TEi = OR/OP và nhận giá trị trong khoảng từ 0 đến 1. Khi TE có giá trị bằng 1 thì ngân hàng có hiệu quả kỹ thuật tối đa, điểm R là hiệu quả kỹ thuật vì nằm trên đường đồng lượng hiệu quả.
Hiệu quả phân bổ (AE) của ngân hàng hoạt động tại P được định nghĩa bởi tỷ số: AEi = OS/OR. Khoảng cách SP biểu thị lượng giảm trong chi phí sản xuất, nếu sản xuất diễn ra tại điểm hiệu quả phân bổ và hiệu quả kỹ thuật hay hiệu quả kinh tế toàn phần D, thay vì tại điểm hiệu quả kỹ thuật, nhưng không hiệu quả phân bổ Q (Coelli et al. (2005)).
Hiệu quả kinh tế toàn phần hay hiệu quả chi phí (CE) là sự kết hợp các yếu tố đầu vào (x1,x2) với chi phí thấp nhất. Hiệu quả chi phí được đo lường bằng tỷ lệ giữa chi phí thực tế wx và chi phí thấp nhất wx*, tỷ lệ wx*/ wx = OS / OP. Chính vì thế, hiệu quả chi phí được tách thành hai bộ phận là hiệu quả kỹ thuật và hiệu quả phân bổ: CE = OS / OP = hiệu quả kỹ thuật (OR/OP) * hiệu quả phân bổ (OS/OR).
Lợi thế quy mô đo lường tỷ lệ đầu ra thay đổi khi các yếu tố đầu vào thay đổi với công nghệ sản xuất và quản l không thay đổi tại quy mô sản xuất tối ưu (Samisoni, 2010). Lợi thế tăng dần do quy mô (IRS) xảy ra khi quy mô đầu ra của ngân hàng tăng lên và quy mô đầu vào tăng ít hơn sự gia tăng trong quy mô đầu ra tương ứng đó. Hiệu suất giảm dần do quy mô (DRS) xảy ra khi tốc độ gia tăng chi phí đầu vào của quá trình sản xuất lớn hơn sự gia tăng quy mô của đầu ra tương ứng. Hiệu suất không thay đổi theo quy mô (CRS) là hiện tượng xảy ra khi tốc độ gia tăng quy mô đầu ra và gia tăng chi phí đầu vào là như nhau.
Lợi thế quy mô của ngân hàng được xây dựng dựa trên đường chi phí trung bình trong ngắn hạn (SAC) và dài hạn (LAC) của ngân hàng. Mỗi đường chi phí trung bình ngắn hạn đại diện cho quy mô khác nhau của ngân hàng trong ngắn hạn. Ngân hàng sẽ lựa chọn hoạt động tại quy mô mà chi phí trung bình thấp nhất với cùng một quy mô sản lượng đầu ra. Đường chi phí trung bình dài hạn LAC chia thành 2 đoạn, đoạn có độ dốc giảm phản ánh sản lượng đầu ra gia tăng khi chi phí trung
bình giảm, đoạn có độ dốc tăng phản ánh chi phí trung bình tăng khi sản lượng đầu ra gia tăng. Ngân hàng sẽ duy trì quy mô hoạt động tại điểm M với mức chi phí trung bình trong ngắn dạn và dài hạn thấp nhất.
Hình 1.3: Lợi thế quy mô và đường cong chi phí
Nguồn: Farrell (1957)
Khi ngân hàng sử dụng nhiều hơn hai đơn vị đầu vào (x1; x2) thì sự kết hợp các yếu tố đầu vào được biểu diễn thông qua hiệu suất thay đổi theo quy mô (VRS). Chính vì thế, hiệu quả kỹ thuật được phân tách thành hai bộ phận gồm hiệu quả kỹ thuật thuần (PTE) và hiệu quả quy mô (SE)
Hình 1.4: Hiệu quả kỹ thuật thuần và hiệu quả quy mô
Nguồn: Farrell (1957)
Hình 1.3 cho thấy ngân hàng đang ở điểm P khi kết hợp đầu vào X để tạo sản lượng đầu ra Y. Đường OA là đường hiệu suất không đổi theo quy mô (CRS) và đường FEBCD là đường đại diện cho hiệu suất thay đổi theo quy mô (VRS). Hiệu quả kỹ thuật của ngân hàng P sẽ là tỷ số GR/GP thay vì OR/OP như đã phần tích ở phần trước. Để đo lường hiệu quả quy mô, giả định hiệu suất thay đổi theo quy mô được sử dụng thay thế cho giả định hiệu suất không đổi theo quy mô. Trên đường FEBCD - hiệu suất thay đổi theo quy mô thì hiệu quả quy mô (SE) được đo lường bằng tỷ số GR/GE và hiệu quả kỹ thuật thuần (PTE) đo lường bằng tỷ số GE/GP.
1.2.2 Hiệu quả hoạt động ngân hàng
Trong khuôn khổ đối tượng nghiên cứu là các NHTM Việt Nam. Góc nhìn về hiệu quả hoạt động cần điều chỉnh và thu hẹp lại cho phù hợp hơn và chính xác hơn do các ngân hàng là tổ chức cung cấp dịch vụ với hàng loạt những chi phí đáng kể. Đáng lưu ý hơn nữa là các ngân hàng tạo ra phần lớn thu nhập của họ thông qua lãi từ các khoản vay, mà tiền gửi của khách hàng lại chiếm tỷ trọng đáng kể trong số những khoản cho vay này.
Theo Beck et al. (2000) hiệu quả hoạt động ngân hàng chính là trung chuyển các quỹ từ người tiết kiệm đến người đi vay nhằm cho phép phân bổ các nguồn lực tới những người sử dụng hiệu quả nhất. Một hệ thống tài chính hiệu quả chính cách mà nó tạo ra nhiều nguồn lực và phân bổ tốt hơn. Qua đó đóng góp nhiều hơn cho việc tăng năng suất và tăng trưởng kinh tế.
Theo Chen (2001), hiệu quả trong lĩnh vực ngân hàng đã được xác định và nghiên cứu các khía cạnh khác nhau bao gồm: (i) hiệu quả quy mô (ii) hiệu quả về phạm vi và (iii) hiệu quả hoạt động. Hiệu quả hoạt động ngân hàng đề cập đến việc sử dụng có hiệu quả nguồn nhân lực, nguyên vật liệu và máy móc thiết bị. Khi việc sử dụng bất kỳ hoặc kết hợp cả ba loại này tốt hơn, qua đó có thể tăng sản lượng hàng hoá và dịch vụ và giảm chi phí. Các ngân hàng hoạt động có hiệu quả bằng cách định hướng các khoản tiết kiệm của xã hội đến những doanh nghiệp có lợi ích xã hội cao nhất mong muốn và theo dõi chúng cẩn thận sau khi cho vay. Ngược lại, các ngân hàng hoạt động lãng phí và không hiệu quả sẽ làm chậm tăng trưởng kinh tế và giảm phúc lợi xã hội (Athanasoglou et al. (2008)). Giống như các tổ chức khác, ngân hàng không phải là
các tổ chức từ thiện mà cũng phải nổ lực đem lại lợi nhuận cho các cổ đông. Hiệu quả hoạt động ngân hàng chính là năng lực của các ngân hàng trong việc chuyển đổi đầu vào thành sản phẩm và dịch vụ tài chính với chi phí thấp hơn so với doanh thu từ hoạt động kinh doanh.
Berger và Mester (1997) coi hiệu quả hoạt động của các NHTM thể hiện ở mối quan hệ giữa doanh thu đầu ra và chi phí sử dụng các nguồn lực đầu vào hay chính là khả năng biến các nguồn lực đầu vào thành các đầu ra tốt nhất trong hoạt động kinh doanh của các NHTM. Cụ thể ở việc các NHTM tạo ra doanh thu đầu ra lớn nhất với giá trị các nguồn lực đầu vào nhỏ nhất.
Như vậy, hiệu quả hoạt động của NHTM có thể được hiểu theo ba hướng: Thứ nhất đó là tối thiểu hóa chi phí, tức là sử dụng ít nhất các yếu tố đầu vào như vốn, cơ sở vật chất, lao động…để tạo ra đầu ra như trước. Thứ hai đó là giữ nguyên đầu vào nhưng tạo ra lượng đầu ra nhiều hơn. Thứ ba là sử dụng nhiều yếu tố đầu vào hơn nhưng lượng đầu ra được tạo ra tăng nhanh hơn so với tốc độ tăng đầu vào. Trong khuôn khổ bài nghiên cứu này, các NHTM được xem là đạt hiệu quả khi đạt doanh thu đầu ra lớn nhất thông qua việc sử dụng cùng số lượng nguồn lực đầu vào với các NHTM khác nhưng chi phí sử dụng là thấp nhất.
Hiệu quả hoạt động và đo lường hiệu quả dần trở nên phổ biến và được sử dụng cho nhiều loại hình tổ chức kinh tế khác nhau - ngân hàng là lựa chọn của khá nhiều nghiên cứu về đo lường hiệu quả. Cũng từ đó có nhiều cách tiếp cận để ước lượng, đo lường và giải thích hiệu quả ngân hàng. Nhưng xét tổng thể thì có hai cách tiếp cận đo lường hiệu quả phổ biến là tiếp cận cấu trúc (structural) và phi cấu trúc (nonstructural) Hughes & Mester (2008).
1.2.2.1 Cách tiếp cận phi cấu trúc (the nonstructural approach)
Cách tiếp cận phi cấu trúc (nonstructural) để đo lường hiệu quả ngân hàng là một cách truyền thống và được sử dụng phổ biến. Cách thức đo lường thông qua hàng loạt chỉ số tài chính như ROE (return on equity), ROA (return on assets), ROS (return on sale), C/I (costs ratio)…Tuy nhiên, cách tiếp cận này có hai nhược điểm: một là, không đánh giá được giá trị thị trường của tài sản, mức độ rủi ro…; hai là, chỉ phù hợp khi ngân hàng sử dụng một đầu vào duy nhất hoặc sản xuất một đầu ra duy nhất.
Vì vậy, để khắc phục, nhiều nghiên cứu đã ứng dụng giá trị thị trường, mức độ rủi ro của ngân hàng/doanh nghiệp trong đo lường hiệu quả, ví dụ: sử dụng chỉ số Tobin’s q (tỷ số giữa giá trị thị trường của tài sản trên giá trị sổ sách của tài sản); chỉ số Sharpe (một thước đo xem lợi nhuận thu được là bao nhiêu trên một đơn vị rủi ro khi đầu tư vào một tài sản), hệ số CAR (hệ số an toàn vốn)…
Theo Wozniewska (2015), Hughes và Mester Hughes & Mester (2008) đo lường hiệu quả ngân hàng theo chỉ số có thể chưa thành 4 nhóm chỉ số chính:
- Một là, nhóm chỉ số phản ánh khả năng sinh lời như ROA, ROE, ROS.
- Hai là, nhóm chỉ số phản ánh cấu trúc bảng cân đối như tỷ lệ tiền gửi khách hàng trên tổng tài sản (DTA), tỷ lệ vốn chủ sở hữu trên tổng tài sản (ETA), tỷ lệ dư nợ tín dụng trên tổng tài sản (LTA).
- Ba là, nhóm chỉ số phản ánh chất lượng tài sản của các ngân hàng như nợ xấu (NPLs), tỷ lệ dự phòng rủi ro nợ xấu trên tổng dư nợ.
- Bốn là, nhóm chỉ số có phản ánh giá trị thị trường và mức độ rủi ro của tài sản như chỉ số Tobin’s q, chỉ số Sharpe, hệ số an toàn vốn CAR…
Bên cạnh phân tích các nhóm chỉ số tài chính trên thì cần kết hợp với những đặc điểm môi trường vi mô của ngân hàng/doanh nghiệp như chiến lược đầu tư, chiến lược cạnh tranh, thị phần, cấu trúc hội đồng quản trị…Để từ đó đưa ra những đánh giá khách quan và phù hợp với nguồn lực ngân hàng/doanh nghiệp.
Tóm lại, cách tiếp cận phi cấu trúc thông qua phân tích các nhóm chỉ số tài chính là một phương pháp phổ biến và dễ thực hiện. Nhưng ít phù hợp với ngân hàng nên cách tiếp cận cấu trúc (the structural approach) lại trở nên ưu việt hơn.
1.2.2.2 Cách tiếp cận cấu trúc (the structural approach)
Tiếp cận cấu trúc là sự lựa chọn lý thuyết, nghĩa là dựa trên một mô hình lý thuyết của ngân hàng/hoặc doanh nghiệp và các khái niệm về tối ưu hóa. Các lý thuyết cũ thường sử dụng lý thuyết sản xuất vi mô truyền thống (the traditional microeconomic theory of production) cho ngân hàng. Còn các lý thuyết mới hơn xem ngân hàng là một trung gian tài chính – đó có những dịch vụ tài chính rất phức tạp và nhiều rủi ro. Hay kết hợp lý thuyết trung gian tài chính với hoạt động sản xuất vi mô của ngân hàng trong đo lường hiệu quả ngân hàng.
Theo Hughles và Mester Hughes & Mester (2008) cách tiếp cận cấu trúc (the structural approach) thường dựa vào tính kinh tế của chi phí tối thiểu (cost minimization) hoặc lợi nhuận tối đa (profit maximization), mà phương trình hiệu quả được biểu hiện thông qua hàm chi phí hoặc hàm lợi nhuận, hoặc có thể gọi chung là hàm sản xuất.
Khi ước lượng hàm sản xuất có thể cho biết một công ty có hiệu quả về mặt kỹ thuật (technically efficient), nếu nhà quản trị thực hiện tối đa hóa sản lượng sản xuất với số lượng nhất định các đầu vào. Nhưng Hughles và Mester lại thích hơn về hiệu quả về mặt kinh tế (economic efficiency), tức là công ty phản ứng kịp thời với sự thay đổi giá cả trong việc lựa chọn đầu vào và đầu ra.
Các phân tích hiệu quả ngân hàng tập trung vào hiệu quả theo phạm vi (scope efficiency) và hiệu quả theo quy mô (scale efficiency). Và việc quan sát các yếu tố đầu vào, đầu ra, sau đó kết hợp để nhằm giảm thiểu chi phí hoặc tối đa hóa lợi nhuận.
Sự kết hợp có liên quan đến sự lựa chọn phạm vi hoặc quy mô hiệu quả ở những ngân hàng đều có sự hiệu quả khác nhau. Nên từ đó, các nhà nghiên cứu đưa ra thêm mô hình X – efficiency để đo lường hiệu quả ngân hàng.
X – efficiency được sử dụng để mô tả thiếu hiệu quả kỹ thuật và sự phân bổ của các ngân hàng. Cách tiếp cận này được cho rằng phù hợp hơn với ngân hàng so với phạm vi hoặc quy mô hiệu quả.
Chính Leibenstein Leibenstein (1966) khởi xướng nghiên cứu X – efficiency, và mãi đến năm 1990 mới được công bố bởi Berger và Humphrey Berger & Humphrey (1991), Ferrier và Lovell Ferrier & Lovell (1990b), Elyasiani và Mehdian Elyasiani & Mehdian (1990). Theo đó, nghiên cứu đã cung cấp được các ứng dụng thực nghiệm đầu tiên với phương pháp khác nhằm tiếp cận đo lường hiệu quả ngân hàng. Avilez Avilez (2011), mỗi nghiên cứu đo lường hiệu quả ngân hàng sử dụng phân tích biên (frontier analysis) nhưng có sự khác nhau ở hai hướng hoặc là hiệu quả biên (efficient frontier) hoặc hiệu quả tối ưu thực tế (the best practice).
Berger và Humphey Berger & Humphrey (1991) thì sử dụng phương pháp tham số, còn Ferrier và Lovell Ferrier & Lovell (1990a), Elyasiani và Mehdian Elyasiani & Mehdian (1990) dùng phương pháp phi tham số. Cả hai dùng để phân tích đo lường hiệu quả ngân hàng thương mại Mỹ và các tổ chức tài chính khác cũng tại Mỹ. Sau năm 1993, xuất hiện các nghiên cứu hiệu quả ngân hàng ngoài Mỹ Berger et al. (1993).
Từ đây, các nghiên cứu về hiệu quả ngân hàng ngày càng đa dạng lẫn hình thành nhiều phương pháp ước lượng hiệu quả ngân hàng và mối quan hệ giữa hiệu quả ngân hàng với các yếu tố ảnh hưởng khác đến ngân hàng (như tăng trưởng kinh tế, cấu trúc vốn chủ sở hữu, năng lực cạnh tranh…). Đa phần các nghiên cứu sau chỉ sử dụng cách tiếp cận cấu trúc với các phương pháp chính để đo lường hiệu quả ngân hàng, cụ thể như sau:
Một là, cách tiếp cận tham số (parametric approach) với 3 phương pháp chính: (i) phương pháp biên ngẫu nhiên (SFA); (ii) phương pháp phân tích Thick Frontier Approach (TFA); (iii) và phân tích Distribution Free Approach.
Hai là, cách tiếp cận phi tham số (non – parametric approach) với 2 phương pháp chính: (i) phương pháp phân tích bao dữ liệu (DEA); (ii) và phương pháp xử lý yếu tố tự do Hull (FDH).
- Cách tiếp cận tham số (Parametric Frontier Approach)
Để đánh giá được hiệu quả hoạt động của các ngân hàng, những nhà nghiên cứu thường sử dụng hai cách tiếp cận: cách tiếp cận tham số và phi tham số. Cách tiếp cận này tính toán chỉ số hiệu quả tương đối dựa trên việc so sánh khoảng cách của các đơn vị (DMUs) ngân hàng với một đơn vị thực hiện hoạt động tốt nhất trên đường biên. Đồng thời cho phép tính toán được điểm hiệu quả chung của từng ngân hàng dựa trên hoạt động của chúng và xếp hạng hiệu quả hoạt động của các ngân hàng.
Cách tiếp cận tham số (Parametric Frontier Approach) bao gồm 3 phương pháp: một là, SFA – Stochastic Frontier Approach; hai là, DFA – Distribution Free Approach; ba là, TFA – Thick Frontier Approach.
Một trong những phương pháp phân tích thường được sử dụng nhất là phương pháp SFA (Stochastic Frontier Approach). SFA đòi hỏi phải xác định một dạng hàm cụ thể đối với đường biên hiệu quả mà liên quan đến một yếu tố đầu vào với nhiều yếu tố đầu ra hoặc một yếu tố đầu ra với nhiều yếu tố đầu vào.
Hay theo Jondrow và cộng sự Jondrow et al. (1982), phương pháp biên ngẫu nhiên (SFA) dựa trên giả định của một hàm chi phí, lợi nhuận hoặc hàm sản xuất và phần sai số. Một phần của phần sai số là sai số có tính chất 2 phía (two – sided error term) theo phân phối chuẩn. Phần khác là phần sai số có tính chất 1 phía (one – sided error term) đại diện cho sự thiếu hiệu quả và theo phân phối bất đối xứng. Đây có thể là một phân phối nửa chuẩn, phân phối Gamma, phân phối chuẩn cụt (a truncated normal