Nguyên mới có thể trích dẫn trong Kiến tính thành Phật. Hay nói cách khác, chúng đã nằm trong dòng chủ lưu của nền văn học và tư tưởng tiếng Việt, trở thành khởi nguồn của một dòng văn học Nôm phát triển rực rỡ trong những giai đoạn sau này, mà kết tụ là đỉnh cao Truyện Kiều của đại thi hào Nguyễn Du.
Hai tác phẩm này thuộc loại văn học luận đề, là những bản văn chính luận tập trung trình bày một số vấn đề tư tưởng và lý luận. Chúng đã dùng tiếng Việt như một ngôn ngữ để phát biểu những tư tưởng trừu tượng khó nắm bắt một cách khéo léo và dễ hiểu. Sự đồ sộ, quy mô của hai tác phẩm văn học Nôm đầu tiên này đã đánh dấu sự ra đời và trưởng thành của ngôn ngữ dân tộc: trở thành ngôn ngữ sáng tác văn học, đủ khả năng chuyển tải bất cứ nội dung tư tưởng khác nhau và mang vẻ đẹp của riêng nó. Đây chính là một trong những cống hiến lớn, mà hai tác phẩm này đã mang lại cho văn học Việt Nam.
Thành quả này hẳn phải là sự kế thừa những thành tựu và tinh hoa của nền văn học trong hơn ngàn năm đó, nên đến ngày nay mỗi khi đọc lại, chúng ta vẫn cảm thấy chúng gần gũi, đẹp đẽ và dễ hiểu, khác hẳn với những câu văn ngọng nghịu khó chịu do người ngoại quốc ghi lại mới chỉ cách ta hơn 300 năm. Thực tế để có được giọng văn lý luận như đã xuất hiện trong Cư trần lạc đạo phú và Đắc thú lâm tuyền thành đạo ca, tiếng Việt đã trải qua cả thiên niên kỷ thử thách và sử dụng, trở thành một mạch ngầm chống lại mưu đồ Hán hóa của ngàn năm Bắc thuộc, chứ không phải đến thời vua Trần Nhân Tông nó mới bắt đầu được đưa vào sự nghiệp sáng tác của thơ văn. Do thế, Cư trần lạc đạo phú và Đắc thú lâm tuyền thành đạo ca là kết tụ của những nỗ lực phi thường và đầy gian khổ trong quá trình đấu tranh bi tráng để bảo vệ dân tộc và giữ vững chủ quyền quốc gia. Giá trị văn học của hai tác phẩm này nhờ vậy càng nhân lên gấp bội.
Do tính kết tụ bắt buộc, không một ngôn ngữ nào trên thế giới bỗng chốc có thể nhảy lên vũ đài văn học, để trở thành một ngôn ngữ văn học. Ngay cả những ngôn ngữ lớn có văn bản lâu đời trên thế giới như tiếng Hán, tiếng Phạn, Hy Lạp
v.v… cũng đều trải qua một quá trình kết tụ lâu dài, để từ những văn bản bói quẻ thô sơ hoặc những bài ca vịnh đơn giản bước lên vị trí những ngôn ngữ văn học nổi tiếng trên thế giới. Tiếng Việt cũng vậy. Để có những tác phẩm lý luận mang vẻ đẹp văn học như Cư trần lạc đạo phú và Đắc thú lâm tuyền thành đạo ca, nó cũng đã trải qua một quá trình kết tụ lâu dài từ bài Việt ca đầu tiên được biết cho đến các mẩu chuyện trong Lục độ tập kinh và Tạp thí dụ kinh, cho đến bài Giáo trò của thiền sư Đạo Hạnh. Cả quá trình sử dụng thành thạo và nhuần nhuyễn tiếng nói dân tộc đã tạo cơ hội cho sự ra đời của hai tác phẩm vừa nêu. Không qua một quá trình như thế thì không bao giờ có được những tác phẩm kể trên. Sự xuất hiện của tiếng Việt như một ngôn ngữ văn học, là một quá trình đấu tranh gian khổ đầy thử thách và nguy cơ. Qua quá trình đấu tranh đó, tiếng Việt đã chứng tỏ tính ưu việt của mình, làm tiền đề cho sự xuất hiện của Cư trần lạc đạo phú và Đắc thú lâm tuyền thành đạo ca.
Từ góc độ nghiên cứu ngôn ngữ của tác phẩm này, chúng ta có thể thấy Cư trần lạc đạo phú và Đắc thú lâm tuyền thành đạo ca chính là những minh chứng hùng hồn cho sự đủ đầy và giàu có của tiếng Việt ta.
Cư trần lạc đạo phú được chia ra 10 hội, với gần 180 câu. Tổng cộng bộ từ vựng của Cư trần lạc đạo phú gồm 1688 hạng từ (kể cả các tên đầu đề, tên các hội và bài thơ chữ Hán kết thúc bài phú). Nếu chỉ tính riêng số từ vựng trong các hội thì nó gồm 1623 hạng từ, trong đó có những hạng từ Việt xuất hiện khá nhiều lần như lòng (18 lần), cho (13 lần), chẳng (13 lần), mới (12 lần, hay 11 lần), Bụt (10 lần).v. v… Từ 1623 hạng từ này, nếu thiết lập một bản từ gồm những tên người, tên đất, những từ chuyên môn và những từ phiên âm, chúng ta còn số hạng từ khoảng hơn 1400. Chẳng hạn các từ như Thích Ca, Di Đà, Di Lặc, bát nhã, chiêm bặc, chiên đàn, bồ đề, bồ tát, đàn việt, ưu đàm, Câu Chi, Diễn Nhã Đạt Đa… Đấy là những từ phiên âm của tiếng Phạn và chúng ta chỉ có 12 hạng từ thay vì 26 hạng từ khi tách rời chúng ra thành từng hạng từ một. Các từ chuyên môn như bát phong, bát thức, cực lạc, đại thừa, tiểu thừa, hữu lậu, kim
Có thể bạn quan tâm!
- Hình Tượng Thiên Nhiên Trong Sáng Tác Của Trần Nhân Tông
- Hình Tượng Thiên Nhiên Trong Sáng Tác Của Trần Nhân Tông
- Vai Trò Của Hai Tác Phẩm Cư Trần Lạc Đạo Phú Và Đắc Thú Lâm Tuyền Thành Đạo Ca Trong Nền Văn Học Việt Nam
- Trần Nhân Tông và mấy vấn đề nổi bật của văn học thời Trần - 16
- Trần Nhân Tông và mấy vấn đề nổi bật của văn học thời Trần - 17
Xem toàn bộ 136 trang tài liệu này.
cương, vô lậu, lục căn, lục tặc, tam độc, tam thân, tam tạng, tam huyền, tam yếu, tam nghiệp, tịnh độ, thái bình, thượng sĩ, trí tuệ, tri âm, tri thức, tri kiến, tri cơ, trượng phu, trưởng lão, viên giác, vô thường, vô minh, vô sinh, vô tâm, vô vi cũng thế. Nếu đưa chúng vào những hạng mục từ, ta chỉ có 32 hạng từ thay vì có đến 64. Các tên đất, tên người như Yên Tử, Cánh Diều, Hà Hữu, Hùng Nhĩ, Tân La, Thiên Trúc, Thiếu Lâm, Tào Khê, Thiếu Thất, Lư Lăng, Phá Táo, Thạch Đầu, Lâm Tế, Bí Ma, Thuyền Tử, Đạo Ngô, Thiều Dương, Triệu Lão, Thiên Cang, Thái Bạch cũng vậy. Với số lượng trên dưới 1400 từ này, ta có một bộ từ vựng tương đối phong phú để nghiên cứu ngôn ngữ của dân tộc ta vào thời vua Trần Nhân Tông.
Còn Đắc thú lâm tuyền thành đạo ca gồm 88 câu, với lượng từ lên đến 336, trong đó trừ những trùng lặp đã có đến 238 hạng từ.
Gộp chung cả Cư trần lạc đạo phú và Đắc thú lâm tuyền thành đạo ca, ta sẽ có một bộ từ vựng với gần 2000 từ, tức cỡ loại từ điển nhỏ, và cho ta một nhận thức tương đối hoàn chỉnh về ngôn ngữ dân tộc ta vào thời đại Trần Nhân Tông, tức thế kỷ XIII, cách chúng ta trên 700 năm.
Qua từng đó con số, chúng ta có thể hình dung được thành tựu lớn lao, vị trí của hai tác phẩm văn này trong tiến trình văn học dân tộc.
4.2.2. Cư trần lạc đạo phú và Đắc thú lâm tuyền thành đạo ca với quá trình Việt hóa Phật giáo
Đạo Phật và Thiền tông đã du nhập vào nước ta từ rất sớm, không chỉ trên phương diện lễ nghi tư tưởng mà cả kinh sách nội điển. Ngay từ thế kỷ I Sau công nguyên, đạo Phật đã có mặt ở nước ta. Còn sự xuất hiện của Thiền tông được ghi mốc năm 580 khi thiền sư Ấn Độ là Tì-ni-đa-lưu-chi qua truyền giáo, lập ra dòng thiền đầu tiên tại Việt Nam. Gắn với quá trình ra đời và phát triển của Phật giáo, thì hệ thống kinh kệ cũng dần được hình thành. Tuy nhiên nguồn kinh chủ yếu được lấy từ Trung Quốc với chữ viết là chữ Hán. Thời Đinh-Lê vẫn
chỉ lưu hành những kinh sách đã được du nhập từ thời Bắc thuộc. Đến năm 1007, vua Lê Ngọa Triều mới sai người sang Trung Quốc (bấy giờ là thời Tống) xin Kinh Đại Tạng. Đến thời Lý, Trần các vua Lý cũng thường xuyên sai người sang Trung Quốc xin Kinh Tam Tạng. Như vậy có thế thấy trong suốt thời kỳ cực thịnh của đạo Phật - Đời Lý - Trần, hệ thống kinh của ta vẫn sử dụng nguồn chủ yếu từ Trung Quốc. Truyền thống Phật giáo với các kinh điển Nội điển chú trọng vào ngôn ngữ âm Hán. Trong thư tịch Thiền tông, âm Hán tạo nên sự hàm súc trong ngôn ngữ để nghe, suy nghĩ và hành động được những căn cơ gần với các tổ, bậc cổ đức để hướng đạo các thiền sinh sớm chứng ngộ vào cõi Niết bàn.
Về mặt các sáng tác tôn giáo của các thiền sư Việt Nam thì cũng vẫn chủ yếu sử dụng chữ Hán. Ví dụ Trần Thái Tông viết Thiền tông chỉ Nam tự, Kinh Kim Cương Tam Muội v.v… tất cả đều bằng chữ Hán. Các bài kệ của các thiền sư cũng đều được viết bằng chữ Hán.
Còn về chữ Nôm thì những thư tịch Phật giáo còn đến ngày nay cho thấy giai đoạn sớm thời Lý - Trần chữ Nôm đã sớm xuất hiện trên văn bia, như bia chuông chùa Vân Bản: Vân Bản tự chung minh, bia chùa Báo Ân Chúc Thánh Báo Ân tự bi khoảng cuối thế kỷ XII đầu XIII; Báo Ân thiền tự bi kí…. bắt đầu chứng tỏ chữ Nôm đã được dùng trong văn bản tôn giáo, ghi chép ruộng Tam bảo. Đây là những tư liệu thành văn đầu tiên của ngôn ngữ chữ Nôm Việt Nam đến nay còn lại.
Tuy nhiên, chỉ đến Cư trần lạc đạo phú và Đắc thú lâm tuyền thành đạo ca thì chúng ta mới thật sự có những sáng tác tôn giáo lớn bằng ngôn ngữ dân tộc. Cả hai tác phẩm này của Trần Nhân Tông, đặc biệt là Cư trần lạc đạo phú đều mang tải những vấn đề cốt lõi, trung tâm của Thiền tông (như: vấn đề về tâm, vô tâm, con đường đạt đạo, việc tu hành v.v…) và đã trở thành ngọn đuốc tuệ dẫn dắt đời sống tinh thần của dân tộc ta trong khoảng thời gian dài. Có thể nói Cư trần lạc đạo phú là một bản tuyên ngôn của con đường sống đạo, mà Phật giáo
Việt Nam đã đề ra và đã chi phối cuộc sống của hàng triệu triệu người Phật tử Việt Nam thời vua Trần Nhân Tông và những thế kỷ sau. Nó cũng là một trong số ít tác phẩm Phật giáo Việt Nam được trích dẫn đích danh như một quyền uy, khi thiền sư Chân Nguyên trình bày những vấn đề Phật giáo cho vua Lê Chính Hòa vào khoảng những năm 1692 trong Kiến tính thành Phật lục. Vì thế tư tưởng của Cư trần lạc đạo phú đã giúp một phần nào cho sự tồn tại của nó trong quá trình truyền đạt. Còn Đắc thú lâm tuyền thành đạo ca lại ca ngợi sự vi diệu của đời sống tu hành ngập tràn thiên nhiên, xa cái ồn ào náo nhiệt của nhân thế, lìa bỏ những vọng niệm, ngã chấp.
Nhưng điểm đặc sắc, giá trị của hai tác phẩm này không chỉ dừng ở giá trị tư tưởng của chúng mà còn nằm trong chính hình thức tác giả sử dụng để chuyển tải những tư tưởng đó: đó là cả hai tác phẩm đều viết bằng chữ Nôm. Như chúng ta đều biết, việc lựa chọn ngôn ngữ sáng tác cũng thể hiện rất rõ quan niệm sáng tác của tác giả và cũng góp phần quyết định đời sống, sự tồn tại của tác phẩm đó. Trong trường hợp này, bằng lựa chọn của mình, Trần Nhân Tông đã giúp đưa những đạo lý Thiền tông có phần cao siêu, trừu tượng đến gần hơn với sâu rộng nhân dân. Không chỉ hướng tới dân tộc, thống nhất dân tộc trong vấn đề tư tưởng, mà Trần Nhân Tông còn thống nhất trong cách sử dụng phương thức truyền đạt. Qua các tác phẩm Nôm của ông, những triết lý sâu xa, uyên bác trở nên gần gụi, dễ hiểu và dễ tiếp nhận hơn rất nhiều.
Mặc dù không thiếu những điển tích điển cố và rất nhiều âm tác giả vẫn phải mượn nguyên từ tiếng Hán. Tuy nhiên những vấn đề cơ bản, cốt lõi nhất thì đã được Trần Nhân Tông chuyển tải theo một cách thức có thể coi là dễ tiếp nhận nhất trong thời bấy giờ. Các khái niệm cốt lõi trong Thiền tông như khái niệm Tâm, Phật đã được Trần Nhân Tông Việt hóa cho phù hợp.
Từ “Lòng” được sử dụng nhiều lần (18 lần trong Cư trần lạc đạo phú và 6 lần trong Đắc thú lâm tuyền thành đạo ca), chính là dịch từ khái niệm tâm. Trần
Nhân Tông đã kết hợp từ “lòng” với một số cụm từ khác để diễn tả các khái niệm quen thuộc trong Thiền tông:
Lòng rồi: nhân tâm, vô tâm.
Một lòng: nhất tâm, cái tâm không sai biệt vọng động. Lòng vốn: Bản tâm, cái tâm bản thể của con người.
Giới lòng: tâm giới, tức là điều răng về chữ Tâm.
Lòng kinh, Kinh Lòng: kinh về chữ Tâm, tức kinh nhà Phật. Rèn lòng: trau dồi cái Tâm.
Lòng minh kính: nhắc lại điển tích bài kệ của Thần Tú, có câu: Thân là cây bồ đề, Tâm là đài gương sáng (Thân tự bồ đề thụ, Tâm như minh kính đài).
Lòng ta vướng chấp không thông: tâm còn chất chứa vọng niệm, chưa đạt ngộ. Lòng phàm: cái tâm phàm trần, còn vô minh bám chấp
Niềm lòng vằng vặc: sạch hết vọng niệm trong tâm. Lòng vờ vịt: cái tâm còn chứa chấp nghi ngờ.
Trần Nhân Tông dung từ “Bụt” theo cách gọi dân gian để chỉ đức Phật. Từ “Bụt” được lặp lại 10 lần trong Cư trần lạc đạo phú, hai lần trong Đắc thú lâm tuyền thành đạo ca, kết hợp trong một số cụm từ, câu với các nghĩa. Ví dụ “Bụt ở cong nhà”: Phật tại tâm, khuyên con người đừng tìm sự giác ngộ hay cõi niết bàn, hãy tìm trong chính mình.
Tiểu kết
Trong chương này chúng tôi đã nêu khái lược sự ra đời của chữ Nôm và việc sử dụng chữ Nôm trong lịch sử dân tộc. Có thể thấy sự ra đời của Cư trần lạc đạo phú và Đắc thú lâm tuyền thành đạo ca là một bước tiến lớn trong việc khẳng định ngôn ngữ và tinh thần dân tộc. Hai tác phẩm này mang cả giá trị lịch sử và giá trị nội tại. Bằng việc truyền đạt một “tuyên ngôn về con đường sống đạo” bằng văn Nôm, Trần Nhân Tông đã góp phần đưa giáo lý nhà Phật đến với quảng đại quần chúng. Đây cũng chính là khát vọng của ông, đồng thời nó cũng phù hợp với tinh thần của Thiền tông là đem đến cho tất thảy chúng sinh khả năng ngộ đạo và giải thoát trong chính kiếp sống.
Mặt khác, việc một ông vua sử dụng chữ Nôm để sáng tác cũng thể hiện rất rõ bản lĩnh và tinh thần dân tộc. Nếu như trong cuộc đời, trong con đường tu hành, Trần Nhân Tông luôn ý thức rất rõ việc khẳng định vị trí độc lập, tự cường, thì trong văn học cũng vậy. Cách kết hợp giữa nội dung và hình thức trong hai bài phú Nôm này cũng để lại một tiền lệ sáng tạo cho văn học dân tộc. Về mặt ngôn ngữ, thì ngôn từ của hai bài phú này rất đa dạng, gộp lại thậm chí có thể trở thành một cuốn từ điển nhỏ. Chính điều này đã góp phần làm giàu có và thúc đẩy quá trình dân tộc hóa văn học của Việt Nam.
Xét trong quá trình Việt hóa Phật giáo thì công lao của hai tác phẩm này cũng rất lớn, bằng việc chuyển tải những nội dung trừu tượng, khó nắm bắt của Phật giáo thông qua ngôn ngữ dân tộc, Trần Nhân Tông đã đưa Thiền tông đến gần gũi hơn với quảng đại quần chúng. Về mặt này, Cư trần lạc đạo phú và Đắc thú lâm tuyền thành đạo ca cũng đã chứng tỏ được sự trưởng thành về tinh thần dân tộc, tinh thần độc lập tự cường trong một thời đại lịch sử hào hùng, cũng như chứng tỏ tầm nhìn xa trông rộng của Trần Nhân Tông với mong muốn thống
nhất đất nước, giáo hội. Việc làm này của ông một lần nữa chứng tỏ Trần Nhân Tông luôn chủ động và có chủ ý xây dựng một khối thống nhất trong tất cả các sự nghiệp của ông.
Nhìn từ những góc độ trên, có thể thấy hai tác phẩm này của Trần Nhân Tông là hết sức có giá trị và cần được chú trọng nghiên cứu, đi sâu tìm hiểu kỹ hơn.