Khó Khăn Trong Việc Thực Hiện Quy Định Pháp Luật


xử lý hình sự được là chưa đánh giá hết tính nguy hiểm của hành vi, hậu quả và không đảm bảo tính công bằng trong xử lý hình sự.

- Về hành vi tàng trữ, vận chuyển, buôn bán trái phép “sản phẩm” của động vật chỉ quy định ở khoản 1 Điều 244 BLHS còn các khoản khác không quy định. Như vậy tất cả các hành vi tàng trữ, vận chuyển, buôn bán trái phép sản phẩm động vật nguy cấp, quý, hiếm chỉ bị xử lý hình sự ở khoản 1 Điều 244 BLHS là không hợp lý.

- Điểm b khoản 1 Điều 244 BLHS quy định: “Tàng trữ, vận chuyển, buôn bán trái phép cá thể, bộ phận cơ thể không thể tách rời sự sống hoặc sản phẩm của loài động vật quy định tại điểm a khoản này”, tức là trong số những đối tượng tác động mà người phạm tội hướng đến quy định trong khoản 1 là có “sản phẩm” của động vật nguy cấp, quý, hiếm được ưu tiên bảo vệ. Tuy nhiên, điểm b khoản 1 Điều 244 BLHS lại không quy định về số lượng, khối lượng hay giá trị của đối với “sản phẩm” động vật nguy cấp, quý, hiếm được ưu tiên bảo vệ để định lượng làm cơ sở truy cứu trách nhiệm hình sự. Quy định của pháp luật như trên đã dẫn đến nhiều tranh cãi trong thực tiễn về việc nhận định hành vi đến mức hoặc chưa đến mức xử lý hình sự. Ví dụ: Một người đeo 01 chiếc nanh Hổ làm vật trang sức, đã có nhiều quan điểm tranh luận, nhận định khác nhau về việc hành vi đến mức hoặc chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự.

- Điểm đ khoản 1 Điều 244 BLHS chỉ quy định xử lý hình sự đối với hành vi tàng trữ, vận chuyển, buôn bán trái phép cá thể, bộ phận cơ thể không thể tách rời sự sống của động vật thuộc Danh mục thực vật rừng, động vật rừng nguy cấp, quý, hiếm Nhóm IB hoặc Phụ lục I Công ước về buôn bán quốc tế các loài động vật, thực vật hoang dã nguy cấp; nhưng không quy định hành vi tàng trữ, vận chuyển, buôn bán trái phép “sản phẩm” các loài động vật này là bỏ sót hành vi phạm tội và không tương xứng với Tội vi phạm quy định về bảo vệ động vật hoang dã, quy định tại Điều 234 BLHS. Bởi vì: Điều 234 BLHS quy định: Tàng trữ, vận chuyển, buôn bán trái phép…sản phẩm của động vật thuộc Danh mục thực vật rừng, động vật rừng nguy cấp, quý, hiếm Nhóm IIB hoặc Phụ lục II Công ước về buôn bán quốc tế


các loài động vật, thực vật hoang dã nguy cấp; trong khi động vật thuộc Nhóm IB và Phụ lục I Công ước về buôn bán quốc tế là những loài đang bị đe dọa tuyệt chủng có mức độ bảo vệ cao hơn động vật thuộc Nhóm IIB hoặc Phụ lục II Công ước về buôn bán quốc tế.

- Tình tiết định khung hình phạt “Săn bắt trong khu vực bị cấm hoặc vào thời gian bị cấm” được quy định tại điểm h khoản 2 Điều 244 BLHS. Mặc dù Nghị quyết số 05/2018/NQ-HĐTP ngày 05/11/2018 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao đã có hướng dẫn thế nào là săn bắt vào thời gian bị cấm tức là săn bắt động vật rừng nguy cấp, quý, hiếm vào “mùa sinh sản” hoặc “mùa di cư” của chúng, nhưng hiện nay chưa có văn bản quy phạm pháp luật hướng dẫn hoặc quy định về “mùa sinh sản”, “mùa di cư” của các loài, do đó việc quy định tình tiết định khung này đã gây khó khăn cho việc thống nhất áp dụng pháp luật trong thực tiễn.

- BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) quy định pháp nhân thương mại là chủ thể chịu trách nhiệm hình sự của Tội vi phạm quy định về bảo vệ động vật nguy cấp, quý, hiếm nhằm đáp ứng tình hình thực tiễn trong đấu tranh phòng, chống buôn bán trái phép động vật nguy cấp, quý, hiếm với đối tượng vi phạm không chỉ là cá nhân mà còn là tổ chức kinh tế, doanh nghiệp. Tuy vậy, đến nay chưa có pháp nhân thương mại nào bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội phạm này, trong khi thực tiễn pháp nhân thương mại phạm tội không phải là ít. Việc không xử lý hình sự được đối với pháp nhân thương mại có nhiều nguyên nhân, trong đó nguyên nhân chủ yếu là công tác xác minh, thu thập chứng cứ gặp rất nhiều khó khăn. Bởi vì: Đối tượng phạm tội dùng nhiều thủ đoạn rất tinh vi nhằm che đậy, đối phó sự kiểm tra, phát hiện của các cơ quan chức năng; cụ thể bằng các phương thức, thủ đoạn khác nhau như nhập khẩu, tạm nhập, tái xuất; cất giấu cá thể, sản phẩm động vật hoang dã như ngà voi, đồi mồi, sừng tê giác... trong các container chứa các hàng hóa hợp pháp. Khi được Cơ quan điều tra triệu tập, các cá nhân đại diện doanh nghiệp có tên trong vận đơn nhận hàng đều từ chối nhận hàng và khẳng định hàng hoá bị gửi nhầm hoặc doanh nghiệp không ký hợp đồng với công ty nước ngoài và không làm thủ tục mở tờ khai hải quan để nhập khẩu lô hàng


Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 86 trang tài liệu này.

hoặc công ty chỉ nhận làm thủ tục tạm nhập, tái xuất cho công ty ở nước ngoài, tờ khai hải quan thể hiện hàng hoá tạm nhập tái xuất là hàng hoá được pháp luật cho phép, không biết lô hàng chứa sản phẩm ĐVHD. Mặt khác, các container hàng hóa chứa ngà voi, sừng tê giác đều được gửi từ các công ty nước ngoài nên Cơ quan điều tra không thể trực tiếp xác minh làm rò mà phải yêu cầu tương trợ tư pháp để điều tra nhưng hầu hết đều không có kết quả trả lời của quốc gia được ủy thác. Đây là những khó khăn điển hình trong việc thu thập chứng cứ để xử lý hình sự đối pháp nhân thương mại phạm tội này.

2.3.2. Khó khăn trong việc thực hiện quy định pháp luật

Tội vi phạm quy định về bảo vệ động vật nguy cấp, quý, hiếm từ thực tiễn tỉnh Đồng Nai - 8

- Để xác định đúng khách thể bị xâm hại của tội phạm này, các Cơ quan tiến hành tố tụng buộc phải trưng cầu giám định tư pháp về loài động vật, sản phẩm của loài động vật bị xâm hại để có căn cứ pháp lý xử lý tội phạm. Tuy nhiên, trên thực tế công tác giám định trên địa bàn tỉnh Đồng Nai hiện nay có một số khó khăn, vướng mắc sau:

+ Một số nơi các tổ chức giám định ở gần thì không đủ điều kiện, khả năng để giám định, nên phải tiến hành trưng cầu giám định ở địa phương khác, điều kiện đi lại khó khăn, mất rất nhiều thời gian.

+ Một số tổ chức có chức năng giám định chuyên sâu thì thiếu về nhân lực và thiếu về phương tiện, cơ sở vật chất phục vụ giám định nên làm kéo dài thời gian giám định.

+ Chi phí giám định AND tốn kém và mất nhiều thời gian cũng ảnh hưởng đến việc xử lý vụ án theo đúng trình tự, thủ tục của pháp luật tố tụng hình sự.

+ Một số loài thuộc phụ lục động vật hoang dã nguy cấp theo Công ước CITES nhưng không phân bổ tự nhiên ở Việt Nam, muốn giám định để kết luận đúng tên loài thì phải tiến hành giám định AND và phải mua nguồn gen từ nước ngoài. Do đó, việc giám định trong những trường hợp này gặp rất nhiều khó khăn, vừa tốn kém về kinh phí vừa phải mất rất nhiều thời gian.

+ Việc bảo quản, lưu giữ sản phẩm của động vật hoang dã phục vụ công tác giám định cũng gặp phải khó khăn vì đối với các sản phẩm của động vật hoang dã


và động vật nguy cấp, quý, hiếm khi thu giữ phải được niêm phong để tiến hành giám định ADN nhằm xác định đúng loài, chủng loại để làm căn cứ xử lý. Trong thực tế nhiều trường hợp việc bảo quản, lưu giữ cần phải được thực hiện trong điều kiện đặc biệt với những thiết bị lưu trữ chuyên dụng như tủ cấp đông, tủ đông lạnh mà những thiết bị này không phải cơ quan tiến hành tố tụng nào cũng được trang bị. Bên cạnh đó, việc xác định nguồn gốc của động vật là từ tự nhiên hay gây nuôi cũng không đơn giản để áp dụng các quy định xử lý hình sự khi các đối tượng trà trộn giữa động vật hoang dã với gây nuôi để trốn tránh trách nhiệm hình sự.

- Trong quá trình giải quyết, nhiều vụ án hết thời hạn điều tra phải tạm đình chỉ do không thể xác định được người thực hiện hành vi phạm tội, không có căn cứ để khởi tố bị can. Đặc biệt là những vụ án buôn bán có yếu tố nước ngoài do hoạt động tương trợ tư pháp hình sự mất rất nhiều thời gian và gặp nhiều trở ngại.

- Điểm d khoản 3 Điều 106 Bộ luật TTHS và điểm a, b khoản 1 Điều 7 Nghị quyết số 05/2018/NQ-HĐTP của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao quy định: Vật chứng là ĐVHD (còn sống, đã chết) hoặc sản phẩm ĐVHD sau khi có kết luận giám định phải giao cho “cơ quan quản lý chuyên ngành xử lý theo quy định của pháp luật”. Tuy nhiên, luật không quy định cụ thể “cơ quan quản lý chuyên ngành” là cơ quan nào, dẫn đến tranh cãi, đùn đẩy trách nhiệm lẫn nhau giữa các cơ quan chức năng khi giải quyết vụ án, vụ việc.

- Theo quy định tại Điều 34 Luật Tổ chức cơ quan điều tra hình sự năm 2015, thì Cơ quan Kiểm lâm là Cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra đối với một số loại tội phạm, trong đó có Tội vi phạm quy định về bảo vệ động vật nguy cấp, quý, hiếm theo Điều 244 BLHS. Tuy nhiên, đội ngũ công chức Kiểm lâm làm nhiệm vụ này tại Đồng Nai không được đào tạo về nghiệp vụ điều tra cũng như không được đào tạo, bồi dưỡng chuyên sâu về việc áp dụng, thực hiện quy định của Bộ luật hình sự, Bộ luật TTHS, từ đó họ rất lúng túng khi phát hiện, thụ lý, giải quyết vụ án, vụ việc. Cụ thể: Không nắm vững những quy định, quy trình về công tác thu thập, đánh giá chứng cứ khi khám nghiệm hiện trường vụ án, không nắm vững về kỹ năng nghiệp vụ trong việc lấy lời khai…Từ đó dẫn đến


công tác điều tra, thu thập chứng cứ giải quyết vụ án còn rất nhiều thiếu sót và vi phạm quy định tố tụng.

- Đồng Nai có Vườn Quốc gia Cát tiên rộng 71.920 ha, Khu bảo tồn thiên nhiên Văn hóa Đồng Nai rộng 100.303 ha đều là rừng đặc dụng có nhiều loài ĐVHD nguy cấp, quý, hiếm sinh sống. Tuy nhiên 02 rừng đặc dụng này không có cửa rừng, còn người dân chủ yếu là dân tộc Chơ Ro và nhiều dân tộc thiểu số khác sinh sống dọc theo bìa rừng. Theo quy định tại Nghị định số 01/2019/NĐ-CP ngày 01/01/2019 của Chính phủ về Kiểm lâm và Lực lượng chuyên trách bảo vệ rừng, thì 01 Kiểm lâm viên quản lý đến 500 ha rừng đặc dụng. Như vậy lực lượng kiểm lâm quản lý rừng đặc dụng là rất mỏng, trong khi đối tượng phạm tội luôn lợi dụng vào điểm này để xâm hại ĐVHD, đặc biệt là người dân tộc thiểu số tuy nhận thức pháp luật của họ thấp và hạn chế, nhưng trình độ săn bắt ĐVHD của họ thì rất giỏi, tinh vi và thành thạo. Do đó, tội phạm ẩn về xâm hại động vật nguy cấp, quý, hiếm trên địa bàn tỉnh Đồng Nai xảy ra rất nhiều và diễn biến phức tạp.

- Việc xử lý vật chứng là thả cá thể ĐVHD; động vật nguy cấp, quý, hiếm còn sống về với môi trường tự nhiên cũng gặp nhiều khó khăn, vướng mắc, do cơ quan Kiểm lâm địa phương các tỉnh chưa có Quy chế phối hợp về lĩnh vực này. Cụ thể: Tháng 6/2019, một xe tải chở động vật là 80 con Dê (nuôi) từ Miền Trung vào TP Hồ Chí Minh tiêu thụ, khi đến địa bàn tỉnh Đồng Nai thì bị lực lượng Kiểm lâm kiểm tra, phát hiện trong số Dê có 01 cá thể Sao la (Mang Trường Sơn) là động vật nguy cấp, quý, hiếm thuộc Nhóm IB và Phụ lục I Công ước CITES phân bổ tự nhiên ở khu vực rừng Trường Sơn thuộc các tỉnh từ Nghệ An đến Quảng Nam. Nếu thả cá thể Sao la này về Vườn Quốc gia Cát Tiên hoặc Khu bảo tồn thiên nhiên Đồng Nai thì cá thể sẽ chết vì điều kiện môi trường tự nhiên, khí hậu, thổ nhưỡng tại Đồng Nai không thích nghi, phù hợp với điều kiện sống tự nhiên của cá thể này. Chi cục Kiểm lâm tỉnh Đồng Nai đã liên hệ với Chi cục Kiểm lâm các tỉnh Miền Trung nơi phù hợp với điều kiện sống tự nhiên của loài Sao la, nhưng do ở xa nên không có Cơ quan chức năng địa phương nào đến nhận. (Nguồn - Chi cục Kiểm lâm tỉnh Đồng Nai)


- Năng lực thực thi pháp luật của một số người tiến hành tố tụng còn hạn chế, không được thường xuyên đào tạo, bồi dưỡng chuyên sâu về nghiệp vụ điều tra, xử lý đối với loại tội phạm đặc thù này. Khi giải quyết những vụ án liên quan đến động vật nguy cấp, quý, hiếm; có Điều tra viên, cán bộ điều tra còn lúng túng trong việc định hướng điều tra, việc trưng cầu giám định và đánh giá kết luận giám định.

- Số bị cáo được Tòa án cho hưởng án treo từ năm 2016 – 2020 trên địa bàn tỉnh Đồng Nai là 16/32 bị cáo, (chiếm tỷ lệ 50%) dẫn đến công tác xử lý tội phạm chưa đáp ứng được yêu cầu chính trị địa phương trong công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm “Vi phạm quy định về bảo vệ động vật nguy cấp, quý, hiếm”.

2.4. Nguyên nhân của những khó khăn, vướng mắc

2.4.1. Nguyên nhân khách quan

- Đồng Nai là tỉnh có đặc điểm tự nhiên đa dạng sinh học với nhiểu kiểu hệ sinh thái phong phú nên là điều kiện thuận lợi cho môi trường sinh sống của các loài động vật nguy cấp, quý, hiếm. Với các đặc trưng cơ bản của rừng nhiệt đới, Vườn Quốc gia Cát tiên có diện tích 71.920 ha, Khu bảo tồn thiên nhiên văn hóa Đồng Nai rộng 100.303 ha là những nơi có tài nguyên động, thực vật phong phú đa dạng, đồng thời Đồng Nai cũng là cửa ngò của khu vực kinh tế trọng điểm phía Nam và là một trong ba đỉnh của tam giác kinh tế bao gồm Thành phố Hồ Chí Minh - Đồng Nai - Bình Dương. Đồng Nai có diện tích lớn thứ nhì ở Vùng Đông Nam Bộ (sau Bình Phước) và dứng thứ ba ở miền Nam (sau Bình Phước và Kiên Giang). Trên địa bàn toàn tỉnh Đồng Nai có 51 dân tộc và người nước ngoài sinh sống; trong đó người Kinh có 2.311.315 người, người Hoa có 95.162 người, người Nùng có 19.076 người, người Tày có 15.906 người, người Khmer có 7.059 người, còn lại là những dân tộc khác như: Chơ ro, Mường, Dao, Chăm, Thái... Ở khu vực Vườn Quốc gia Cát Tiên, Khu bảo tồn thiên nhiên văn hóa Đồng Nai hay những khu vực có điều kiện cho các loài động vật nguy cấp, quý, hiếm sinh sống thì trình độ văn hóa, nhận thức pháp luật của người dân còn hạn chế. Đa phần người dân chưa phân biệt được loài nào được bảo vệ và chưa hiểu biết về quy định của pháp luật về bảo vệ động vật nguy cấp, quý, hiếm; do đó không biết đó là loài ĐVHD được bảo vệ. Ví dụ như


không biết việc nuôi đồi mồi dứa là vi phạm pháp luật; không biết các động vật lạ như rái cá vuốt bé là động vật nguy cấp, quý, hiếm nên mua về nuôi như nuôi thú cưng làm cảnh; người được thuê vận chuyển không biết các loài được thuê vận chuyển là loài động vật nguy cấp, quý hiếm bị cấm buôn bán, vận chuyển….

- Do ảnh hưởng của văn hóa, phong tục tập quán nên còn có một bộ phận lớn người dân chưa hiểu biết hoặc có sự hiểu biết sai lầm về tác dụng sản phẩm của một số loài động vật như: mật gấu, sừng tê giác chữa bách bệnh; cao hổ giúp bồi bổ, cường tráng cơ thể; rắn hổ ngâm rượu trị bệnh.… nên đã săn bắt, nuôi, nhốt hoặc buôn bán những loài động vật nguy cấp, quý, hiếm. Đây là một trong những nguyên nhân làm cho tình hình Tội vi phạm quy định về bảo vệ động vật nguy cấp, quý, hiếm gia tăng.

- Một số vụ án, vụ việc có chủ hàng là người nước ngoài nên gặp khó khăn trong công tác xác minh, làm rò. Việc giải quyết những vụ án về động vật nguy cấp, quý, hiếm có yếu tố nước ngoài như chủ hàng ở nước ngoài, hàng hóa là động vật nguy cấp, quý, hiếm có nguồn gốc từ nước ngoài… nên gặp rất nhiều khó khăn trong việc truy vết người phạm tội, phải phụ thuộc vào tương trợ tư pháp. Tuy nhiên thời gian chờ kết quả tương trợ tư pháp để xử lý vụ án là rất lâu, thậm chí có vụ án không nhận được kết quả tương trợ tư pháp.

- Công tác giáo dục, phổ biến, tuyên truyền pháp luật về bảo vệ động vật hoang dã, nguy cấp quý hiếm của các cơ quan chức năng còn hạn chế, dẫn đến nhận thức của người dân còn thiếu hiểu biết về tầm quan trọng trong việc quản lý, bảo vệ và nghiêm cấm xâm hại động vật hoang dã trong chính sách pháp luật của Nhà nước.

- Việc phối hợp giữa các cơ quan chức năng nói chung và các cơ quan tiến hành tố tụng trong việc tổ chức thi hành pháp luật, phát hiện vi phạm và xử lý tội phạm liên quan đến ĐVHD vẫn còn nhiều hạn chế, thiếu sót.

- Điều kiện về cơ sở vật chất, trang thiết bị, phương tiện, nhân lực của các lực lượng làm công tác bảo vệ và xử lý hành vi xâm phạm động vật nguy cấp, quý, hiếm còn thiếu và lạc hậu. Năng lực chuyên môn, trình độ và kỹ năng của lực lượng thực thi pháp luật, cơ quan tiến hành tố tụng chưa phù hợp với yêu cầu thực tiễn.


- Cán bộ điều tra thuộc lực lượng Kiểm lâm tỉnh không được đào tạo về nghiệp vụ điều tra dẫn đến công tác phát hiện, xác minh, điều tra thu thập chứng cứ giải quyết vụ án còn nhiều hạn chế, thiếu sót và vi phạm quy định tố tụng. Lực lượng Kiểm lâm được phân bổ quản lý rừng theo quy định của pháp luật là còn quá mỏng không đáp ứng được tình hình thực tế. Chế độ đãi ngộ vẫn còn thấp đối với lực lượng ở tuyến đầu bảo vệ và đấu tranh với loại tội phạm này của tỉnh Đồng Nai là lực lượng Kiểm lâm, vì vậy chưa tạo được động lực để họ nhiệt huyết, nâng cao trách nhiệm trong công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm.

- Những quy định của pháp luật có liên quan đến việc quản lý, bảo vệ các loài động vật hoang dã; động vật nguy cấp, quý, hiếm và những quy định của pháp luật quy định việc xử lý vi phạm, tội phạm về bảo vệ động vật nguy cấp, quý, hiếm chưa đầy đủ, khoa học, chưa cụ thể, rò ràng và còn bất cập; không phù hợp với tình hình thực tiễn dẫn đến khó khăn khi áp dụng, gây nhiều tranh cãi, làm cho việc áp dụng pháp luật trong đường lối xử lý vụ án, vụ việc không được thống nhất.

2.4.2. Nguyên nhân chủ quan

Bên cạnh những nguyên nhân khách quan thì nguyên nhân chủ quan cũng là yếu tố tác động đến việc xử lý đối với Tội vi phạm quy định về bảo vệ động vật nguy cấp, quý, hiếm; cụ thể như sau:

- Một bộ phận những người tiến hành tố tụng tỉnh Đồng Nai như: Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán còn xem nhẹ việc xử lý đối với người phạm tội này; quan điểm họ cho rằng tội phạm này chỉ xâm hại đến động vật, môi trường sinh thái chứ không xâm hại đến tính mạng, sức khỏe của con người. Do đó, thái độ căm phẫn, lên án đối với người phạm tội này là ít hơn so với người phạm các tội khác, từ đó áp dụng đường lối xử lý cũng nhẹ hơn. Thực tế này dẫn đến thực trạng người phạm tội không những ít bị truy cứu trách nhiệm hình sự, mà đến khi xét xử thì thường được hưởng mức án nhẹ hoặc được hưởng án treo, dẫn đến tính răn đe, phòng ngừa chưa đạt hiệu quả, chưa đáp ứng được yêu cầu chính trị địa phương.

- Một số người tiến hành tố tụng ban đầu như: Điều tra viên, Cán bộ điều tra, Kiểm sát viên còn lúng túng trong việc nhận biết động vật nguy cấp, quý, hiếm và

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 25/06/2022