phòng tới tổ chức hệ thống KSNB cùng mối liên hệ giữa các yếu tố trong hệ thống từ đó đưa ra những nhận định, đánh giá.
Luận án còn sử dụng các phương pháp điều tra, thống kê, phân tích và so sánh để đưa ra các nhận định, đánh giá cụ thể về thực trạng tổ chức hệ thống KSNB trong các đơn vị, trên cơ sở đó đưa ra các kiến nghị cụ thể về hoàn thiện tổ chức hệ thống KSNB trong các đơn vị dự toán trực thuộc BQP. Luận án cũng sử dụng kết quả phân tích về tổ chức kiểm soát NSQP ở một số quốc gia trên thế giới để tổng kết kinh nghiệm và bài học có thể vận dụng trong điều kiện Việt Nam. Ngoài ra Luận án còn sử dụng các phương pháp trình bày khác nhau như sơ đồ, bảng biểu và phương pháp diễn giải, quy nạp để mô tả thực trạng cũng như đề xuất mô hình tổ chức hệ thống KSNB trong các đơn vị dự toán trực thuộc BQP;
Số liệu, tình hình trong Luận án được khai thác từ nhiều nguồn khác nhau bao gồm: từ kết quả đánh giá hệ thống KSNB của các đơn vị dự toán trực thuộc BQP được kiểm toán trong các Kế hoạch kiểm toán của Kiểm toán Nhà nước; từ các báo cáo đánh giá công tác tài chính hàng năm của Cục Tài chính và các tài liệu tham khảo; từ kết quả điều tra do Tác giả tiến hành. Phương pháp điều tra được sử dụng kết hợp giữa điều tra trực tiếp và điều tra gián tiếp bằng hệ thống các câu hỏi phỏng vấn sâu (câu hỏi mở) và các câu hỏi đóng (Phụ lục II). Trong quá trình điều tra Tác giả trực tiếp phỏng vấn những người có trách nhiệm và có nhiều năm trong nghề đồng thời trực tiếp quan sát các hoạt động kiểm soát tại một số phòng (ban) tài chính, xem xét trực tiếp các dấu hiệu kiểm soát để lại trên một số sổ sách, chứng từ, tài liệu kế toán.
5. Những đóng góp của Luận án
Luận án có những đóng góp cả lý luận lẫn thực tiễn. Cụ thể:
Thứ nhất, về mặt học thuật, lý luận: Từ lý luận cơ bản về hệ thống kiểm soát nội bộ (KSNB) và đặc thù của quản lý tài chính trong lĩnh vực quốc phòng, luận án đã đề xuất mô hình tổ chức hệ thống KSNB áp dụng trong các đơn vị dự toán trực thuộc Bộ Quốc phòng (BQP), trong đó khẳng định: (1)Mục tiêu kiểm soát ưu tiên đảm bảo hiệu năng của quản lý thay cho hiệu quả kinh doanh; hoạt động kiểm soát tập trung trên việc xem xét tính tuân thủ hơn đánh giá hiệu quả của vốn, của lao động, của tài nguyên; (2) Là đơn vị dự toán cấp trung gian nên trong mô hình KSNB vừa có kiểm soát trực tiếp vừa có kiểm soát gián tiếp; các chính sách, thủ tục kiểm soát được thiết kế không chỉ để vận hành ở bản thân đơn vị mà còn quy định cho cấp dưới thực hiện; trong mô hình không có
uỷ ban kiểm soát; (3) Quy trình, thủ tục kiểm soát đòi hỏi tính linh hoạt nhằm thích ứng với các tình huống, các trạng thái sẵn sàng chiến đấu trong thời bình, linh hoạt khi chuyển sang thời chiến.
Thứ hai, những kết luận và đề xuất mới rút ra từ kết quả nghiên cứu: (1) Luận án khẳng định trong các đơn vị dự toán trực thuộc BQP Việt Nam tồn tại các dấu hiệu cơ bản của hệ thống KSNB với ba bộ phận cấu thành là môi trường kiểm soát, hệ thống thông tin và thủ tục kiểm soát, nhưng chưa được tổ chức đầy đủ và chặt chẽ do thiếu cơ sở pháp lý và năng lực thực hiện liên quan đến quản lý tài chính phù hợp với đặc thù hoạt động quốc phòng, (2) Từ nghiên cứu hoạt động kiểm soát ngân sách quốc phòng (NSQP) ở một số quốc gia, Luận án rút ra cần có lộ trình xây dựng hệ thống KSNB trong các đơn vị quân đội Việt Nam, trong đó bao gồm các bước hình thành văn bản pháp quy tạo cơ sở pháp lý; đổi mới phương thức kiểm soát NSQP theo hướng kiểm soát theo khối lượng sản phẩm đầu ra; kiểm soát thông qua hệ thống tiêu chuẩn, định mức chi tiêu quốc phòng; chuyên nghiệp hoá các cơ quan đảm bảo; thiết lập mạng truyền số liệu trong nội bộ. (3) Luận án đề xuất giải pháp cụ thể để hoàn thiện tổ chức hệ thống KSNB trong các đơn vị dự toán trực thuộc BQP gồm 5 nhóm: (a)Đưa ra mô hình tổ chức hệ thống KSNB thích hợp với những đơn vị dự toán cấp II; (b)Tạo dựng môi trường kiểm soát thuận lợi bằng cách gắn trách nhiệm của lãnh đạo các đơn vị trong tổ chức hệ thống KSNB, đồng thời xây dựng chính sách tài chính với các định mức, tiêu chuẩn chế độ phù hợp với thực tế của các đơn vị và thực hiện đúng chế độ công khai tài chính; (c) Nghiên cứu áp dụng hình thức kế toán Nhận ký chung, hình thành kế toán quản trị, mở rộng ứng dụng công nghệ thông tin vào công tác tài chính kế toán; (d) Xây dựng và thể chế hóa công tác kiểm tra tài chính nội bộ, bao quát các khâu lập, phân bổ, cấp phát và quyết toán ngân sách, đảm bảo tách bạch ba chức năng thực hiện nghiệp vụ, ghi sổ và bảo quản tài sản.
6. Kết cấu của Luận án
Có thể bạn quan tâm!
- Tổ chức hệ thống kiểm soát nội bộ trong các đơn vị dự toán trực thuộc Bộ Quốc phòng - 1
- Tổ chức hệ thống kiểm soát nội bộ trong các đơn vị dự toán trực thuộc Bộ Quốc phòng - 2
- Tổ chức hệ thống kiểm soát nội bộ trong các đơn vị dự toán trực thuộc Bộ Quốc phòng - 4
- Tổ chức hệ thống kiểm soát nội bộ trong các đơn vị dự toán trực thuộc Bộ Quốc phòng - 5
- Tổ chức hệ thống kiểm soát nội bộ trong các đơn vị dự toán trực thuộc Bộ Quốc phòng - 6
Xem toàn bộ 230 trang tài liệu này.
Ngoài các phần Mở đầu và Kết luận, Luận án gồm 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận cơ bản về tổ chức hệ thống kiểm soát nội bộ trong các đơn vị dự toán trực thuộc bộ quốc phòng;
Chương 2: Thực trạng tổ chức hệ thống kiểm soát nội bộ trong các đơn vị dự toán trực thuộc Bộ Quốc phòng Việt Nam;
Chương 3: Phương hướng và giải pháp hoàn thiện tổ chức hệ thống kiểm soát nội bộ trong các đơn vị dự toán trực thuộc Bộ Quốc phòng.
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐÊ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ TỔ CHỨC HỆ THỐNG KIỂM SOÁT NỘI BỘ TRONG CÁC ĐƠN VỊ DỰ TOÁN TRỰC THUỘC BỘ QUỐC PHÒNG
1.1. Lý luận chung về tổ chức hệ thống kiểm soát nội bộ
1.1.1. Kiểm tra, kiểm soát trong quản lý
Hoạt động của mỗi tổ chức trong các lĩnh vực đời sống xã hội đều cần phải quản lý. Quản lý là một quá trình định hướng và tổ chức thực hiện theo hướng đã định trên cơ sở những nguồn lực đã xác định nhằm đạt hiệu quả cao nhất. Quản lý bao gồm các chức năng cơ bản : Xác định mục tiêu và lập kế hoạch ; tổ chức, lựa chọn và bố trí cán bộ ; phối hợp ; kiểm tra, kiểm soát. Trong các chức năng đó, kiểm tra kiểm soát được thực hiện ngay từ khi xác định mục tiêu và lập kế hoạch, cho đến khi mục tiêu đạt được và có mối quan hệ chặt chẽ với các chức năng khác. Điều đó thể hiện ở chỗ :Trong xác định mục tiêu và lập kế hoạch cần có các dự báo và kiểm tra dự báo về nguồn lực, xây dựng và kiểm tra các mục tiêu. Kiểm tra, kiểm soát ở đây đảm bảo cho việc dự báo nguồn lực để xây dựng các mục tiêu tổng quát, mục tiêu cụ thể được phù hợp. Trong tổ chức, kiểm tra, kiểm soát đảm bảo cho việc kết hợp các nguồn lực theo phương án tối ưu, xác lập mối quan hệ giữa các bộ phận được khoa học, hợp lý và vận hành thông suốt. Trong bố trí cán bộ và nguồn lực khác, kiểm tra, kiểm soát đảm bảo việc tuyển dụng cán bộ có đủ phẩm chất và năn lực đáp ứng yêu cầu công việc, quản lý và sử dụng có hiệu quả mọi nguồn lực. Trong phối hợp, kiểm soát góp phần nắm bắt và điều chỉnh kế hoạch, mục tiêu kịp thời để đạt hiệu quả cao.
Như vậy, quá trình quản lý có thể chia làm nhiều giai đoạn với mục tiêu, nội dung và phương pháp triển khai khác nhau. Trong khi đó kiểm tra được thực hiện ở tất cả các giai đoạn của quá trình này và kiểm tra không phải là một giai đoạn của quá trình quản lý mà là chức năng của quản lý được thực hiện trong tất cả các giai đoạn. Chức năng này được thể hiện khác nhau tuỳ thuộc vào tổ chức và cấp quản lý, vào loại hình hoạt động, phong tục tập quán và cả những điều kiện kinh tế, xã hội nhất định.
Về phân cấp quản lý, có rất nhiều mô hình khác nhau song chung nhất thường phân thành quản lý vĩ mô và quản lý vi mô. Giữa hai cấp cơ bản đó có thể có những cấp quản lý trung gian vừa chịu sự quản lý vĩ mô của cấp trên vừa, vừa thực hiện chức năng quản lý đối với đơn vị cấp dưới. Dù ở cấp quản lý nào, nhà nước hay đơn vị đều phải tự kiểm tra, kiểm soát trong tất cả các khâu, như rà soát các tiềm năng, xem xét lại các dự
báo, các mục tiêu và định mức, tìm hiểu phương pháp kết hợp các nguồn lực. Tất cả công việc đó được gọi là kiểm soát.
Theo Từ điển Tiếng Việt của Nhà xuất bản Khoa học Xã hội, kiểm soát là : “Xét xem có gì sai quy tắc, điều lệ, kỷ luật không” [63, tr 684]. Quan niệm này thiên về đánh giá tính tuân thủ song cũng bao hàm cả chức năng soát xét “ xét xem ” cùng các tiêu chuẩn cho đánh giá. Tuy nhiên, hiểu đầy đủ kiểm soát là đánh giá và chỉnh sửa các lệnh lạc từ tiêu chuẩn. Do đó, kiểm soát bao gồm các hoạt động : thiết lập tiêu chuẩn, đánh giá thực tế bằng cách so sánh thực tế với tiêu chuẩn và chỉnh sửa các lệnh lạc từ thực tế so với tiêu chuẩn đã xác lập. Như vậy, quá trình kiểm soát bao gồm cả sự đo lường thực tế hoạt động so với tiêu chuản đã xác lập và điều chỉnh nếu cần để đưa hoạt động vào quỹ đạo đã định. Từ đó, kiểm soát không chỉ là phản ứng lại những sự kiện sau khi đã xảy ra mà còn có nghĩa đảm bảo cho hoạt động của tổ chức theo đúng định hướng và dự kiến đã định. Bản chất của kiểm soát còn được hiểu rõ hơn trong các giai đoạn chủ yếu của toàn bộ quá trình quản lý bắt đầu từ việc lập kế hoạch, xây dựng các mục tiêu đến thực hiện kế hoạch và đạt được các mục tiêu. Trong quá trình đó phải có các biện pháp, các thủ tục nắm bắt, điều hành để phòng ngừa, phát hiện, điều chỉnh những hoạt động chệch hướng. Với cách hiểu như vậy, kiểm soát là tổng hợp những phương sách để nắm lấy và điều hành đối tượng quản lý : Đó là quá trình đo lường, đánh giá và tác động lên đối tượng kiểm soát nhằm đảm bảo thực hiện mục tiêu, kế hoạch của tổ chức một cách có hiệu quả. Từ đó, kiểm soát cũng có thể được hiểu theo nhiều chiều, nhiều cấp như : cấp trên kiểm soát cấp dưới thông qua chính sách hoặc các biện pháp cụ thể ; đơn vị này kiểm soát đơn vị khác thông qua các thoả thuận ràng buộc về sở hữu và lợi ích ; nội bộ đơn vị kiểm soát lẫn nhau thông qua quy chế và thủ tục quản lý. Theo đó, ranh giới giữa kiểm tra và kiểm soát cũng có ý nghĩa tương đối do kiểm tra được hiểu là soát xét của cấp trên đối với cấp dưới. Do đó, ở cấp độ quản lý nhà nước hay cấp trung gian trong kiểm soát có cả hoạt động kiểm tra.
Hoạt động kiểm soát bao gồm nhiều loại nên có thể phân loại kiểm soát theo những tiêu thức khác nhau : theo nội dung kiểm soát, theo phạm vi và đối tượng kiểm soát, theo quan hệ với quá trình tác nghiệp, theo thời điểm kiểm soát hay theo quan hệ giữa chủ thể với khách thể kiểm soát.
Theo nội dung kiểm soát, kiểm soát bao gồm kiểm soát kế toán và kiểm soát tổ
chức.
Kiểm soát tổ chức là hệ thống các chính sách, các thủ tục được thiết lập nhằm đảm bảo sự tuân thủ của tổ chức đối với các chính sách, kế hoạch, thủ tục pháp luật và các quy định hiện hành, đề ra những chuẩn mực điều hành rõ ràng để định hướng việc sử dụng các nguồn lực một cách tiết kiệm, có hiệu quả ; xây dựng các mục tiêu, các chương trình hoạt động, triển khai thực hiện các thủ tục kiểm soát đồng thời tìm ra những chính sách, thủ tục tốt hơn, hoàn thiện hơn, từ đó đề ra mục tiêu cao hơn. Nội dung chủ yếu của kiểm soát tổ chức cũng tuỳ thuộc vào loại hình hoạt động : Với hoạt động kinh doanh hướng tới mục tiêu lợi nhuận, kiểm soát tổ chức cũng hướng vào việc xem xét hiệu quả của vốn, lao động, tài nguyên. Ngay hoạt động kinh doanh cũng rất đa dạng : tuỳ theo từng ngành, từng lĩnh vực, nội dung và phương pháp kiểm soát cũng được vận dụng phù hợp ; Với hoạt động sự nghiệp, mục tiêu hoạt động là thực hiện tốt các nhiệm vụ với phí tổn hợp lý, tiết kiệm nên kiểm soát tổ chức thường xem xét tính tuân thủ và hiệu năng của quản lý. Kiểm soát tổ chức phù hợp với các hoạt động về nhân sự, về tổ chức tổ chức bộ máy, về chất lượng cũng như các hoạt động nghiên cứu, triển khai ;
Kiểm soát kế toán bao gồm các chính sách và các trình tự hồ sơ cần thiết cho việc bảo vệ tài sản và độ tin cậy của thông tin và do đó phải đảm bảo các nghiệp vụ được tiến hành theo chuẩn mực chung hoặc hướng dẫn cụ thể của quản lý ; Các nghiệp vụ ghi sổ là cần thiết để chuẩn bị các báo cáo tài chính đúng với nguyên tắc kế toán chung được thừa nhận ; Các tài sản được quản lý theo đúng nguyên tắc, hoạt động ghi đúng thời điểm ; Tài sản đã ghi sổ phải được đối chiếu với tài sản thực có tại thời điểm thích hợp và phải có sự điều chỉnh phù hợp khi có chênh lệch.
Như vậy, kiểm soát kế toán thường quan tâm đến hoạt động tài chính của đơn vị được phản ánh trên sổ sách, tài liệu kế toán. Kiểm soát tổ chức quan tâm đến cả cơ cấu tổ chức và quá trình tổ chức việc sử dụng các nguồn lực một cách tiết kiệm, có hiệu quả. Kiểm soát tổ chức có nội dung và mục tiêu rộng hơn tùy theo đối tượng quản lý. Tuy nhiên, giữa hai loại kiểm soát nói trên không loại trừ nhau, trái lại chúng có mối quan hệ mật thiết tương hỗ cho nhau trong quá trình hoạt động.
Căn cứ vào phạm vi cụ thể, có thể chia kiểm soát ra 2 loại kiểm soát toàn diện và kiểm soát chuyên đề.
Kiểm soát toàn diện là kiểm soát đầy đủ các lĩnh vực và quá trình hoạt động từ chủ trương chính sách, tổ chức quản lý đến hệ thống thông tin kế toán và thủ tục kiểm soát.
Kiểm soát chuyên đề chỉ hướng vào những yếu tố, những mặt cụ thể, chính yếu
của hoạt động cần tập trung nắm bắt và điều hành kịp thời như kiểm soát chất lượng hoặc kết quả một hoạt động, kiểm soát rủi ro (rủi ro trong kinh doanh nói chung hay rủi ro từng loại tác nghiệp).
Trong quan hệ với mục tiêu kiểm soát thì kiểm soát bao gồm : kiểm soát ngăn ngừa, kiểm soát phát hiện và kiểm soát điều chỉnh.
Kiểm soát ngăn ngừa tập trung chủ yếu vào việc quản lý nhân sự, xây dựng các quy trình, quy phạm thực hiện các thao tác nghề nghiệp ;
Kiểm soát phát hiện tập trung vào việc phát hiện và đánh giá các gian lận, sai sót và rủi ro trong quá trình tác nghiệp một cách nhanh chóng nhằm giúp các cấp lãnh đạo có những quyết định xử lý kịp thời để hạn chế thấp nhất những thiệt hại có thể xảy ra ;
Kiểm soát điều chỉnh hướng tới việc cung cấp những thông tin cần thiết cho việc ra các quyết định nhằm uấn nắn, sửa chữa các sai sót mới được phát hiện.
Xét theo quan hệ giữa thời điểm kiểm soát với thời gian xảy ra nghiệp vụ thì kiểm soát chia ra 3 loại : kiểm soát trước thực hiện, kiểm soát trong thực hiện và kiểm soát sau thực hiện ;
Kiểm soát trước thực hiện là kiểm soát các mục tiêu, các kế hoạch hay dự toán để tiên lượng những diễn biến có thể xảy ra trong quá trình tác nghiệp để phòng ngừa những rủi ro, những khó khăn tiềm ẩn ;
Kiểm soát trong thực hiện là kiểm soát được tiến hành ngay trong quá trình hoạt động hay kiểm tra việc thi hành các quyết định quản lý nhằm phát hiện và khắc phục ngay những sai lầm. Loại kiểm soát này có tác dụng to lớn trong việc làm giảm các rủi ro, các sai sót, đảm bảo hiệu quả công việc.
Kiểm soát sau thực hiện còn gọi là kiểm soát thông tin phản hồi hay kiểm soát thông tin trở về. Đây là loại kiểm soát thông dụng nhất hiện nay.
Theo quan hệ giữa chủ thể với khách thể kiểm soát có thể phân chia kiểm soát thành kiểm soát từ bên ngoài (ngoại kiểm) và KSNB (nội kiểm) : Kiểm soát từ bên ngoài là hoạt động kiểm soát do những những chủ thể bên ngoài đơn vị thực hiện ; Trái lại, KSNB hoàn toàn do những người bên trong đơn vị tiến hành.
Tuy nhiên, như đã trình bày, sự phân định này chỉ có ý nghĩa tương đối cả về lý luận và thực tiễn trong một hoạt động kiểm soát cụ thể. Chẳng hạn, với một đơn vị cấp dưới thì kiểm tra, thanh tra của cấp trên là hoạt động kiểm soát của cấp trên nên mang tính ngoại kiểm nhưng xét trong phạm vi tổng thể của cấp trên thì hoạt động này lại mang
tính nội kiểm. Đây là vấn đề liên quan trực tiếp đến hệ thống KSNB nên cần được tập trung làm rõ hơn.
Trước hết cần khẳng định: KSNB không phải là một sự kiện, một tình huống diến ra trong thời gian ngắn mà là một quá trình, một chuỗi các hoạt động diễn ra trong mọi lĩnh vực, nó được xây dựng như một phần cơ bản trong hoạt động đơn vị chứ không phải là sự bổ sung cho hoạt động của đơn vị, cũng không phải là gánh nặng bị áp đặt từ các nhà quản lý hay thủ tục hành chính. Trái lại, KSNB được tổ chức tốt sẽ giúp đơn vị đạt được mục tiêu của mình ;
KSNB bị chi phối bởi con người, trước hết là người lãnh đạo cấp cao trong đơn vị : Con người đặt ra mục tiêu và đưa cơ chế kiểm soát vào vận hành để hướng tới mục tiêu đã định. Ngược lại, KSNB cũng tác động đến hành vi của mỗi con người : Mỗi con người có nhận thức, suy nghĩ và dành sự ưu tiên khác nhau trong khi thực hiện nhiệm vụ song không phải lúc nào cũng hiểu rõ nhiệm vụ và trao đổi thông tin để hành động nhất quán. KSNB sẽ tạo ra ý thức kiểm soát ở mỗi cá nhân và hướng các hoạt động của họ đến mục tiêu chung của đơn vị.
Quá trình KSNB có thể chi tiết thành 5 bước : Xác định mục tiêu ; xây dựng mô hình kiểm soát cùng các thước đo cần thiết ; xác minh thực tế đạt được so với tiêu chuẩn đã thiết lập để tìm chênh lệnh ; thực hiện điều chỉnh chênh lệch ; giám sát thực hiện điều chỉnh chênh lệch và có thể phải tiếp tục điều chỉnh khi cần thiết.
Để KSNB được thực hiện thống nhất, COSO (Uỷ ban thuộc Hội đồng Quốc gia Hoa kỳ về chống gian lận trong báo cáo tài chính) đã ban hành Chuẩn mực về KSNB cho tất cả các công ty dù lớn hay bé đều phải áp dụng nhằm tăng cường kiểm soát các công ty (đặc biệt là công ty niêm yết trên sàn giao dịch). Trong Báo cáo được công bố dưới Tiêu đề “ Kiểm soát nội bộ - Khuôn khổ hợp nhất” COSO đưa ra định nghĩa về KSNB, như sau: “Kiểm soát nội bộ là một quá trình do người quản lý, hội đồng quản trị và các nhân viên của đơn vị chi phối, nó được thiết lập để cung cấp một sự đảm bảo hợp lý nhằm thực hiện ba mục tiêu: Báo cáo tài chính đáng tin cậy; các luật lệ và quy định được tuân thủ; Hoạt động hữu hiệu và hiệu quả.” [50,80]. Đến nay, định nghĩa này được chấp nhận khá rộng rãi và được cả IFAC thừa nhận vì nó đáp ứng được yêu cầu minh mạch thông tin của các công ty (đặc biệt là các công ty niêm yết).
Theo COSO, KSNB bao gồm 5 bộ phận hợp thành: Môi trường kiểm soát; Đánh giá rủi ro; Hoạt động kiểm soát; Thông tin và truyền thông; Giám sát.
Môi trường kiểm soát phản ánh sắc thái chung của một đơn vị, nó chi phối ý thức kiểm soát của mọi thành viên trong đơn vị và là nền tảng cho các bộ phận khác của KSNB. Các nhân tố chính thuộc về môi trường kiểm soát là tính chính trực và giá trị đạo đức của những người liên quan đến quá trình kiểm soát ; Sự đảm bảo về năng lực giúp nhân viên có được kỹ năng và hiểu biết cần thiết để thực hiện được nhiệm vụ ; Triết lý và phong cách điều hành của những người đứng đầu đơn vị ảnh hưởng đến môi trường kiểm soát và tác động đến việc thực hiện các mục tiêu của đơn vị ; Hội đồng quản trị và uỷ ban kiểm toán có chức năng giám sát sự tuân thủ pháp luật và lập báo cáo tài chính ; Cơ cấu tổ chức là sự phân chia trách nhiệm và quyền hạn giữa các bộ phận trong đơn vị ; Cách thức phân định quyền hạn và trách nhiệm được xem là phần mở rộng của cơ cấu tổ chức : Nó cụ thể hoá về quyền hạn và trách nhiệm của từng thành viên trong hoạt động của đơn vị ; Chính sách nhân sự để thực hiện việc tuyển dụng, huấn luyện, bổ nhiệm, đánh giá, sa thải, đề bạt, khen thưởng và kỷ luật. Chính sách nhân sự tác động đến các nhân tố khác trong môi trường kiểm soát.
Đánh giá rủi ro là hoạt động của nhà quản lý dựa trên mục tiêu đã được xác định để dự đoán, nhận dạng rủi ro có thể phát sinh trong các hoạt động, trên cơ sở đó phân tích, nhận định rủi ro nhằm hạn chế rủi ro ở mức chấp nhận được.
Hoạt động kiểm soát là những chính sách và thủ tục để đảm bảo cho các chỉ thị của nhà quản lý được thực hiện. Các chính sách và thủ tục này giúp nhà quản lý thực thi những hành động với mục đích chính là kiểm soát các rủi ro mà đơn vị thường gặp. Các loại hoạt động kiểm soát chủ yếu của đơn vị bao gồm: Phân chia trách nhiệm đầy đủ giữa các bộ phận, giữa các chức năng; Kiểm soát quá trình xử lý thông tin và các nghiệp vụ; Kiểm soát hệ thống chứng từ, sổ sách; Phê chuẩn đúng đắn cho các nghiệp vụ hoặc hoạt động; kiểm soát vật chất; kiểm tra độc lập việc thực hiện; Phân tích rà soát hay soát xét lại việc thực hiện.
Thông tin và truyền thông là điều kiện không thể thiếu trong việc thiết lập, duy trì và nâng cao năng lực kiểm soát của đơn vị thông qua việc hình thành các báo cáo để cung cấp thông tin về hoạt động tài chính và sự tuân thủ, bao gồm cả cho nội bộ và bên ngoài. Trong hệ thống thông tin, hệ thống thông tin kế toán là một phân hệ quan trọng cung cấp thông tin phản ánh toàn bộ hoạt động của đơn vị. Truyền thông đúng đắn cũng giúp cho các nhân viên sự hiểu biết về vai trò và trách nhiệm của họ liên quan đến quá trình lập báo cáo tài chính. Các nhân viên xử lý thông tin sẽ hiểu được công việc của họ