Tổ chức hệ thống kiểm soát nội bộ trong các đơn vị dự toán trực thuộc Bộ Quốc phòng - 19

cấp uỷ Đảng các cấp về công tác tài chính ban hành kèm theo Quyết định 402/QC-ĐU ngày 3/11/2006 của Đảng uỷ Quân sự Trung ương, chủ động xây dựng quy chế phù hợp cho cấp mình. Trong quy chế cần xác định rõ chức năng, nhiệm vụ, mối quan hệ công tác giữa người chỉ huy và cấp uỷ Đảng đơn vị, cần có hướng dẫn cụ thể về nội dung lãnh đạo, chế độ báo cáo đồng thời tổ chức thực hiện nghiêm túc, tránh hình thức. Trong biện pháp lãnh đạo, cần tăng cường công tác kiểm tra, giám sát. Trong chế độ báo cáo, cần sửa đổi các quy định nhằm rút ngắn kỳ báo cáo; Đối với đơn vị dự toán cấp II, định kỳ 6 tháng một lần cơ quan tài chính phải báo cáo tình hình tài chính của đơn vị, trực tiếp giải trình những vướng mắc về quản lý tài chính trước đảng uỷ và người chỉ huy; Cấp sư đoàn (đơn vị dự toán cấpIII) định kỳ 3 tháng một lần, cấp trung đoàn trở xuống (đơn vị dự toán cấp IV) phải báo cáo hàng tháng vì đây là cấp chi tiêu cơ sở, thường có nhiều phát sinh trong quản lý tài chính. Có như vậy, cấp uỷ Đảng và người chỉ huy mới nắm bắt kịp thời tình hình, kết quả cũng như những tồn tại, vướng mắc trong công tác quản lý tài chính của đơn vị để có hướng chỉ đạo giải quyết. Đây cũng là thời điểm để người chỉ huy công khai về tài chính trước cấp uỷ, là kênh thông tin giúp đảng uỷ kiểm soát công tác tài chính của đơn vị. Trong hướng dẫn thực hiện Quy chế, các đơn vị cần cụ thể hóa những nội dung báo cáo về công tác tài chính, tránh sao chép Quy chế của cấp trên. Phải quy định cụ thể cách thức báo cáo, nội dung báo cáo, ghi thành biên bản, lần báo cáo sau phải trả lời chất vấn làm rõ việc khắc phục những thiếu sót nêu trong báo cáo trước. Xây dựng, quán triệt và thực hiện nghiêm Quy chế là một trong những giải pháp quan trọng nhằm nâng cao nhận thức, quan điểm và chỉ đạo của cấp uỷ Đảng và người chỉ huy các cấp về công tác tài chính.

Thứ hai: Mở rộng phạm vi phân bổ quyền lực, phát huy quyền dân chủ của cán bộ chỉ huy trong các quyết định quản lý tài chính

Điều lệnh Quản lý bộ đội quy định: “Chỉ huy đơn vị các cấp chịu trách nhiệm trước pháp luật, trước người chỉ huy cấp trên và đảng uỷ cấp mình về công tác tài chính của đơn vị”[5,46]; Chỉ huy đơn vị là chủ TK của đơn vị mở tại kho bạc có nhiệm vụ chỉ đạo các cơ quan đơn vị lập dự toán thu chi ngân sách; phân bổ dự toán ngân sách được giao cho các cơ quan, đơn vị; quyết định chi đúng chế độ, tiêu chuẩn và định mức chi trong phạm vi dự toán; báo cáo tình hình thực hiện và quyết toán ngân sách; kiểm tra và ký duyệt các chứng từ, báo cáo tài chính, sổ sách kế toán theo quy định; tổ chức quản lý, sử dụng vốn và tài sản của Nhà nước giao cho đơn vị. Đơn vị dự toán trực thuộc BQP có

quy mô lớn, phạm vi rộng, nhiều nghiệp vụ kinh tế, tài chính phát sinh cần có quyết định của người chỉ huy.Tuy nhiên, người chỉ huy phải giải quyết rất nhiều công việc quân sự khác nên không thể quyết định tất cả những vấn đề liên quan đến quản lý, sử dụng tài chính. Do đó, người chỉ huy cần phân cấp quản lý đến các cấp phó và ngành nghiệp vụ. Việc phân cấp cần phải thể hiện cụ thể bằng văn bản và phân cấp theo lĩnh vực hợp lý. Để thực hiện phân cấp quản lý rõ ràng, các đơn vị cần quy định cụ thể thẩm quyền phê duyệt để các nghiệp vụ kinh tế, tài chính được thực hiện theo hướng từng bước, tự chủ. Thực hiện phân cấp ngân sách triệt để, những nhiệm vụ đơn vị cơ sở có thể làm được thì giao ngân sách để đơn vị cơ sở thực hiện, cấp trên chỉ kiểm soát thông qua hệ thống định mức kinh tế kỹ thuật. Trước mắt, trong lĩnh vực xây dựng cơ bản, việc thi công các công trình nhỏ, bảo quản, sửa chữa công trình phổ thông, củng cố cơ sở đảm bảo kỹ thuật nên quy định cấp có thẩm quyền phê duyệt dự toán, thiết kế, hồ sơ quyết toán chỉ cần trên một cấp. Việc duyệt giá thanh toán sản phẩm quốc phòng, duyệt dự án làm kinh tế liên quan đến sử dụng đất quốc phòng nên uỷ quyền hoàn toàn cho đơn vị đầu mối trực thuộc BQP, BQP chỉ kiểm soát thông qua quyết định giao đất tổng thể và thực hiện kiểm tra định kỳ.

Trong quản lý, sử dụng ngân sách, quyết định của người chỉ huy có ý nghĩa quyết định đến hiệu quả sử dụng ngân sách phục vụ cho các nhiệm vụ chính trị, quân sự được giao. Để có quyết định đúng, ngưòi chỉ huy cần tôn trọng nguyên tắc tập trung, dân chủ; tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách; phát huy vai trò tham mưu của các ngành nghiệp vụ và các cấp phó; Các quyết định chi tiêu ngân sách lớn, tổng thể cần thông qua thường vụ đảng uỷ hoặc lấy ý kiến của các cấp phó trước khi quyết định. Cần thực hiện phân công về lĩnh vực tài chính theo hướng: người chỉ huy trưởng chỉ quyết định giao chỉ tiêu ngân sách cho các cơ quan, đơn vị; phê duyệt kế hoạch sử dụng ngân sách; phê duyệt các báo cáo quyết toán ngân sách (kiểm soát đầu vào là chỉ tiêu ngân sách và đầu ra là kết quả công việc hoàn thành). Việc ký duyệt các giấy tờ, hồ sơ liên quan đến sử dụng kinh phí, tài sản (các hợp đồng mua bán, thanh lý, nghiệm thu, phiếu nhập, xuất kho, hợp đồng sửa chữa, bảo quản…) phân công cho các cấp phó.

Thứ ba: Từng bước xây dựng đội ngũ cán bộ tài chính có đủ phẩm chất đạo đức, năng lực chuyên môn nghiệp vụ đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ

Đội ngũ cán bộ, nhân viên tài chính có vai trò quan trọng trong quản lý tài chính ở các đơn vị, là nhân tố ảnh hưởng rất lớn đến việc thực thi các chính sách, thủ tục kiểm

soát của đơn vị. Với đội ngũ cán bộ yếu kém về trình độ chuyên môn, về đạo đức và tinh thần làm việc thì mọi chính sách và thủ tục dù đúng đắn và chặt chẽ đến đâu cũng không phát huy hiệu quả. Ngược lại, có đội ngũ cán bộ, nhân viên tài chính trong đó có kiểm toán viên tốt có thể hạn chế các yếu kém của môi trường kiểm soát hay các thủ tục kiểm soát. Hiện nay phần lớn đội ngũ cán bộ tài chính của các đơn vị đều trải qua rèn luyện thử thách, đa số là đảng viên, có bản lĩnh chính trị vững vàng, có phẩm chất đạo đức và lối sống lành mạnh, có kinh nghiệm công tác nên trước mắt đội ngũ này có thể đảm đương được các nhiệm vụ trên giao, đáp ứng yêu cầu quản lý trong điều kiện hội nhập và phát triển. Tuy nhiên, ở một số đơn vị trình độ cán bộ, nhân viên làm công tác tài chính không đồng đều, tính chuyên nghiệp không cao, số lượng phân bố không hợp lý, nơi thừa, nơi thiếu, làm cho công tác tài chính gặp nhiều khó khăn, bị động, một số cán bộ tài chính giữ vị trí chủ chốt (như kế toán trưởng nhà máy, doanh nghiệp, trưởng ban tài chính), nhập ngũ từ năm 1975, sắp hết tuổi phục vụ trong quân đội, trong khi số sĩ quan được đào tạo hàng năm ra trường không đáp ứng đủ nhu cầu. Hơn nữa, thực hiện chủ trương luân chuyển cán bộ, cán bộ tài chính cũng chậm thích ứng với công việc mới. Do vậy, để có đội ngũ cán bộ, nhân viên đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ, các đơn vị cần thực hiện một số giải pháp sau:

Trước mắt cần tập trung nâng cao chất lượng công tác huấn luyện tại chức, tập huấn nghiệp vụ bằng cách xây dựng nội dung giáo trình huấn luyện phù hợp với từng đối tượng: nội dung huấn luyện kế toán gắn với với các nghiệp vụ kinh tế phát sinh và công tác đảm bảo tài chính ở đơn vị; nội dung huấn luyện tài chính đi sâu vào các tiêu chuẩn chế độ, chính sách đang áp dụng tại đơn vị. Về phương pháp huấn luyện, đi sâu bồi dưỡng kỹ năng thực hành nghiệp vụ; tăng cường công tác kiểm tra, đánh giá kết quả sau huấn luyện, tập huấn; gửi kết quả kiểm tra về đơn vị để đánh giá, bình xét thành tích thi đua quyết thắng hàng năm. Chú trọng huấn luyện toàn diện, đảm bảo cho tất cả nhân viên có thể đảm nhận các việc khác nhau, như: kế toán, tiền lương, ngân sách, kinh phí nghiệp vụ, vốn đầu tư XDCB, để khi luân chuyển đến vị trí công tác mới có thể làm được ngay.

Ở từng cơ quan tài chính cần duy trì nghiêm nền nếp phổ biến các văn bản liên quan đến công tác đảm bảo và quản lý tài chính để mọi cán bộ, nhân viên đều cập nhật kịp thời những nội dung thay đổi trong chính sách, quy định của Nhà nước và Quân đội để tổ chức thực hiện đúng quy định.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 230 trang tài liệu này.

Nâng cao chất lượng công tác thi nâng bậc lương hàng năm, hướng dẫn nội dung

ôn luyện thi phù hợp với từng nhóm, từng bậc lương. Ngoài trình độ chuyên môn nghiệp vụ, cần quy định một lượng kiến thức tin học đủ khả năng ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý tài chính. Có chính sách khen thưởng thích đáng cả về vật chất, tinh thần, nâng lương trước thời hạn đối với những cá nhân đạt kết quả cao trong các hội đồng thi.

Tổ chức hệ thống kiểm soát nội bộ trong các đơn vị dự toán trực thuộc Bộ Quốc phòng - 19

Đề cao tính chuyên nghiệp của đội ngũ cán bộ, nhân viên trực tiếp làm công việc kiểm soát, xây dựng quy trình giải quyết đối với từng nghiệp vụ, xây dựng tác phong công tác chính quy, làm việc đúng giờ, giải quyết công việc đúng thẩm quyền, đúng quy trình.

Xây dựng và thực hiện đúng quy trình bổ nhiệm cán bộ phụ trách, bố trí làm trưởng hoặc phó phòng tài chính những cán bộ đã từng làm trưởng ban tài chính; bố trí làm trợ lý phòng tài chính những đồng chí đã làm trợ lý ban tài chính. Như vậy sẽ đảm bảo yêu cầu bồi dưỡng và tính kế thừa, cán bộ mới được bổ nhiệm có thể đảm nhiệm công việc được ngay, không bỡ ngỡ.

Về lâu dài cần thực hiện quy hoạch cán bộ cấp phòng, ban tài chính, thường xuyên chăm lo đào tạo, bồi dưỡng, xây dựng đội ngũ cán bộ tài chính chủ chốt ở các đơn vi, các phòng tài chính, ban tài chính và trưởng ngành tài chính các trung đoàn thành một lực lượng tin cậy trong tổ chức thực hiện công tác tài chính của đơn vị.

Xây dựng, ban hành tiêu chuẩn trình độ chuyên môn, nghiệp vụ đối với từng chức danh làm công tác tài chính, nhất là ở những vị trí kiểm soát quan trọng. Từng bước thực hiện theo yêu cầu chức danh đã ban hành, những vị trí chưa đáp ứng được, nếu còn độ tuổi cần đưa đi đào tạo, nếu gần hết tuổi phục vụ thì tạm thời sắp xếp nhưng phải có hướng dẫn, bồi dưỡng tại chỗ.

Các đơn vị cần chủ động tuyển chọn cán bộ để bồi dưỡng lớp kế cận theo hướng tại chỗ, những vị trí còn thiếu sĩ quan có thể đưa quân nhân chuyên nghiệp (QNCN) đi đào tạo để chuyển loại hoặc tuyển chọn sinh viên tốt nghiệp Học viện Tài chính, Đại học Kinh tế chuyên ngành tài chính để đưa đi đào tạo sĩ quan dự bị, sau 2 năm phục vụ sẽ chuyển chính thức. Nếu đào tạo theo hướng này, trong vòng 10 - 15 năm tới sẽ có đủ sĩ quan tài chính đáp ứng nhu cầu nhiệm vụ.

Thứ tư: Xây dựng bộ máy kiểm soát đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ quản lý tài chính; Nâng cao chất lượng công tác hợp đồng giữa các cơ quan trong hoạt động kiểm soát.

Công tác tài chính trong các đơn vị dự toán trực thuộc BQP chịu sự kiểm soát của nhiều cơ quan các cấp, bao gồm:

Một là, Các cơ quan bên ngoài: Kiểm toán Nhà nước kiểm toán định kỳ 3 hoặc 5 năm một lần; Thanh tra Bộ Tài chính phối hợp với BQP thanh tra về các khoản Nhà nước đầu tư tập trung, hàng dự trữ quốc gia, các dự án đầu tư bằng NSNN; Thanh tra BQP thanh tra nhiệm vụ toàn diện, hoặc thanh tra chuyên đề, đột xuất; Cục Tài chính thẩm định số liệu quyết toán ngân sách năm, kiểm tra hoặc thanh tra thường xuyên theo chức năng, nhiệm vụ. Kiểm soát của những cơ quan nói trên thường là kiểm soát sau (hậu kiểm)

Hai là, KSNB do các cơ quan chức năng trong đơn vị thực hiện, như: thanh tra, tài chính, doanh trại, công binh, quân lực, quản lý xí nghiệp và sự kiểm soát lẫn nhau giữa các phòng nghiệp vụ chuyên ngành tham mưu, chính trị, hậu cần, kỹ thuật; ủy ban kiểm tra đảng uỷ các cấp; một số hội đồng có tính chất kiêm nhiệm (hội đồng giá, hội đồng liên thẩm quân số, hội đồng thi đua). Các cơ quan này thực hiện nhiệm vụ kiểm soát đối với các hoạt động của cấp mình và cấp dưới theo quy định, có thể kiểm soát trước, trong và sau khi chi tiêu. Trong hệ thống đó, hoạt động kiểm soát của cơ quan tài chính các cấp đóng vai trò quan trọng trong việc duy trì và thực hiện các thủ tục kiểm soát mà đơn vị đã xây dựng

Ba là, Cán bộ, chiến sĩ giám sát thông qua thực hiện quy chế dân chủ và công khai về kinh tế, tài chính theo Quyết định 156/2005/QĐ-BQP ngày11/10/2005 và Quyết định 157/QĐ-BQP ngày 12 tháng 10 năm 2005 của Bộ trưởng BQP.

Trong các hoạt động kiểm soát nói trên, KSNB là chủ động, tích cực, có hiệu quả thiết thực vì đó là hoạt động kiểm soát của bản thân đơn vị và có thể kiểm soát cả trước, trong và sau chi tiêu. Tính hiệu quả của KSNB phụ thuộc rất nhiều vào hệ thống KSNB. Tuy nhiên, các chính sách, thủ tục kiểm soát dù được thiết kế hoàn hảo đến đâu cũng phải thông qua bộ máy kiểm soát của đơn vị. Do vậy, xây dựng bộ máy kiểm soát có đủ năng lực thực thi nhiệm vụ là giải pháp cần thiết. Trước tiên cần kiện toàn tổ chức biên chế hệ thống bộ máy tài chinh các đơn vị cả về chức năng nhiệm vụ và con người từ phòng tài chính, ban tài chính, tiểu ban tài chính đến nhân viên tài chính ở các đại đội, tiểu đoàn theo hướng biên chế đủ chức danh, bố trí đủ người. Hiện nay, phòng tài chính các đơn vị chưa thống nhất về tổ chức biên chế: có đơn vị bố trí ban ngân sách và ban kế toán trong phòng tài chính, có đơn vị không thực hiện. Theo Tác giả, không cần thiết biên chế 2 ban này vì mỗi phòng chỉ có từ 14 đến 18 người, trong đó đã có 1 trưởng phòng và 2 phó phòng có thể trực tiếp quản lý và chỉ đạo nghiệp vụ đối với các trợ lý. Việc thành lập 2

ban trong khi biên chế của mỗi phòng không nhiều lại thêm một cấp trung gian có thể gây khó khăn cho chỉ đạo nghiệp vụ. Mô hình phân công nhiệm vụ tại phòng tài chính cũng cần được hoàn thiện trên cơ sở kết hợp hai phương thức các đơn vị đang áp dụng hiện nay là phân công quản lý theo đơn vị và phân công quản lý theo loại ngân sách. Với phân theo đơn vị, mỗi trợ lý theo dõi 7 đến 10 đơn vị. Mỗi trợ lý này chịu trách nhiệm quản lý (tính toán nhu cầu để cấp phát, xét duyệt quyết toán) tất cả các loại ngân sách mà đơn vị có, bao gồm ngân sách thường xuyên (tiền lương, phụ cấp, trợ cấp, tiền ăn), nghiệp vụ hành chính, NSĐB, NSNN giao, vốn đầu tư XDCB, BHXH. Phương thức phân công này có ưu điểm là nắm được tổng thể tình hình đơn vị mình quản lý, dễ quy trách nhiệm khi đơn vị cấp dưới có sai phạm; Nhược điểm của phương thức này là không chuyên sâu, một người không thể giỏi tất cả các lĩnh vực, nắm chắc tất cả các chính sách, chế độ, tiêu chuẩn và khép kín theo đơn vị dễ xảy ra tình trạng thông đồng với cấp dưới. Với phương thức phân công quản lý theo loại ngân sách: Mỗi trợ lý chuyên theo dõi một loại ngân sách (một số trợ lý theo dõi ngân sách thường xuyên, một số trợ lý chuyên theo dõi ngân sách nghiệp vụ hành chính, NSĐB và NSNN giao, một số trợ lý chuyên theo dõi ngân sách đầu tư XDCB, một người chuyên theo dõi các quỹ và ngân sách tự bổ sung). Phương thức phân công này có ưu điểm là các trợ lý có thể chuyên sâu theo từng loại ngân sách, có điều kiện để nghiên cứu nắm chắc nghiệp vụ theo sự phân công, tránh khép kín, hạn chế việc thông đồng với cấp dưới. Nhược điểm của phương thức này là không nắm tổng thể tình hình tài chính đơn vị, khó quy trách nhiệm khi đơn vị có sai phạm. Theo Tác giả, việc phân công trong phòng tài chính cần kết hợp cả hai phương thức phân công trên. Cụ thể: Đối với ngân sách đầu tư XDCB, do tính chất quản lý phức tạp nên giao cho một trợ lý chuyên trách theo dõi quản lý tất cả các công trình của các đơn vị. Các loại ngân sách khác giao quản lý theo đơn vị; trợ lý theo dõi đơn vị nào thì quản lý tất cả các loại ngân sách của đơn vị đó. Tuy nhiên, cần tách chức năng phân bổ ngân sách cho trợ lý kế hoạch. Sau khi ngân sách được các ngành phân bổ và thủ trưởng đơn vị phê duyệt, trợ lý kế hoạch làm thủ tục thông báo cho các đơn vị, đồng thời thông báo cho trợ lý theo dõi đơn vị. Tách chức năng cấp phát cho trợ lý kế toán, trợ lý theo dõi đơn vị tính toán nhu cầu của đơn vị trên cơ sở ngân sách được giao báo cáo trưởng phòng duyệt, chuyển sang kế toán cấp phát. Đồng thời thực hiện luân chuyển cán bộ phụ trách đơn vị sau 2 đến 3 năm nhằm phòng ngừa khả năng thông đồng giữa cấp trên và dưới.

Ngoài ra, một số cơ quan chức năng như các phòng công binh, doanh trại, kinh tế,

có nhiệm vụ thẩm định những dự án, công trình xây dựng cũng cần biên chế đủ chức danh và bố trí đủ người để có thể đảm đương được nhiệm vụ.

Cần nghiên cứu thành lập bộ phận KTNB và kiện toàn Hội đồng kiểm tra tài chính nội bộ ở các đơn vị dự toán trực thuộc BQP. Về lý luận, bộ phận KTNB và uỷ ban kiểm soát là một trong những yếu tố quan trọng trong hệ thống KSNB. Uỷ ban kiểm soát gồm những nhà lãnh đạo cấp cao cùng các chuyên gia am hiểu nhưng không trực tiếp lãnh đạo, điều hành hoạt động tài chính. Đây là bộ phận giúp đơn vị kiểm soát toàn bộ hoạt động của tổ chức, kiểm soát sự tuân thủ các chính sách, thủ tục do chính các nhà lãnh đạo cấp cao của đơn vị đề ra; KTNB là bộ phận có chức năng kiểm tra độc lập để xem xét, đánh giá các hoạt động kể cả hoạt động kiểm soát của tổ chức với vai trò đảm bảo, tư vấn, hỗ trợ…cho lãnh đạo cấp cao. Mối quan hệ giữa ban kiểm soát và bộ phận KTNB rất chặt chẽ và cùng thực hiện nhiệm vụ của tổ chức. Trên thực tế, các đơn vị dự toán trực thuộc BQP không có hai bộ phận này: Hiện nay Uỷ ban kiểm tra đảng uỷ các cấp và cơ quan thanh tra thực hiện một phần chức năng của uỷ ban kiểm soát. Đây là các cơ quan pháp chế có chức năng giám sát toàn bộ các hoạt động của đơn vị (trong đó có công tác tài chính) nhưng hoạt động không thường xuyên, không chuyên sâu về tài chính. Hoạt động kiểm soát do các ngành nghiệp vụ và một phần lớn do ngành tài chính thực hiện. Đánh giá công tác kiểm tra, kiểm soát các hoạt động tài chính của bản thân đơn vị và cấp dưới trực thuộc cũng lại do cơ quan tài chính các cấp tiến hành nên phần nào không đảm bảo tính độc lập, khách quan. Vì vậy, để xây dựng bộ máy kiểm soát đáp ứng yêu cầu quản lý, ngoài việc kiện toàn tổ chức cơ quan tài chính các cấp, các đơn vị dự toán trực thuộc BQP cần thành lập bộ phận KTNB để thực hiện nhiệm vụ kiểm tra và đánh giá thường xuyên toàn bộ hoạt động của đơn vị, trong đó có cả hệ thống KSNB. Theo Tác giả, với quy mô hàng ngìn người hưởng lương và ngân sách chi tiêu hàng năm hàng ngìn tỷ đồng lại phân tán trên địa bàn nhiều tỉnh như các đơn vị trực thuộc BQP cần tổ chức bộ phận KTNB dưới hình thức ban KTNB với biên chế từ 3 đến 5 người. Đây là những sĩ quan được đào tạo cơ bản về kế toán tài chính, có thâm niên công tác tại cơ quan tài chính các đơn vị hoặc phòng tài chính, được đưa đi bổ túc từ 6 đến 9 tháng về KTNB. Bộ phận KTNB này có chức năng kiểm tra, đánh giá về tất cả các báo cáo tài chính, các kế hoạch phân bổ ngân sách, các dự án đầu tư, các hợp đồng kinh tế… trước khi người chỉ huy phê duyệt, đánh giá hiệu lực, hiệu quả của hoạt động tài chính với cơ quan kiểm toán cấp trên. Bộ phận KTNB phải được tổ chức ở cả hai cấp, từ BQP đến đơn vị dự toán trực

thuộc Bộ. KTNB chịu sự chỉ huy, điều hành của người chỉ huy cao nhất, đồng thời chịu sự chỉ đạo về nghiệp vụ của cơ quan kiểm toán cấp trên. Trước mắt cần xây dựng quy chế, hoàn chỉnh về tổ chức hoạt động của bộ phận KTNB các cấp, trong đó cần đề cập sâu chức năng, nhiệm vụ, phương thức và phạm vi hoạt động; Hàng năm lập kế hoạch kiểm toán đối với các đơn vị thuộc quyền, tổ chức thực hiện kiểm toán và báo cáo kết quả kiểm toán với người chỉ huy. Trên cơ sở kết quả kiểm toán cần đề xuất các biện pháp khắc phục những sai sót, khuyết điểm trong công tác quản lý tài chính cũng như đề xuất hoàn chỉnh các chính sách, thủ tục kiểm soát không còn phù hợp hoặc không có hiệu lực.

Ngoài ra, cần quy định cụ thể chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của các hội đồng có tính chất kiêm nhiệm. Mỗi hội đồng được thành lập đều phải có quy chế hoạt động. Các hội đồng kiêm nhiệm hàng năm phải có báo cáo đánh giá kết quả hoạt động theo chức năng nhiệm vụ được giao, trong đó có nhiệm vụ kiểm tra, kiểm soát đối với việc thưc hiện quân số, công tác quản lý giá và thực hiện nền nếp công tác tài chính. Có chính sách khen thưởng, kỷ luật rõ ràng đối với kết quả hoạt động của hội đồng, lấy kết quả hoạt động làm căn cứ nhận xét, đánh giá cán bộ hàng năm. Đặc biệt cần kiện toàn Hội đồng kiểm tra tài chính nội bộ ở các đơn vị dự toán trực thuộc BQP. Hội đồng gồm một phó tư lệnh phụ trách pháp chế cùng các trợ lý có kiến thức về kế toán, tài chính nhưng không trực tiếp lãnh đạo, điều hành hoạt động tài chính. Hội đồng hoạt động theo chức năng ghi trong Điều lệnh quản lý bộ đội.

Ngoài ra, cần xây dựng quy chế phối hợp giữa các cơ quan trong hoạt động kiểm soát những nhiệm vụ liên quan đến nhiều bộ phận, xây dựng quy chế hợp đồng công tác giữa các cơ quan trong quá trình thực hiện nhiệm vụ chung, phối hợp trong chỉ đạo nghiệp vụ, trong thực hành, kiểm tra, đánh giá, trong sử dụng và cung cấp thông tin, để khắc phục tình trạng đùn đẩy trách nhiệm hoặc lệch pha trong khi cùng thực hiện một nhiệm vụ.

Thứ năm: Hoàn thiện tiêu chuẩn kiểm soát gồm: xây dựng hệ thống các định mức, tiêu chuẩn, chế độ chi tiêu phù hợp với tình hình thực tế của đơn vị; Nâng cao chất lượng công tác kế hoạch đặc biệt là kế hoạch tài chính và công tác thẩm định phân bổ, giao chỉ tiêu ngân sách hàng năm.

Định mức, tiêu chuẩn, chế độ chi tiêu trong quân đôi là căn cứ để lập dự toán, cấp phát, chi tiêu, thanh quyết toán ngân sách hàng năm, đồng thời là cơ sở để kiểm tra giám sát quá trình chi tiêu, sử dụng ngân sách. Hiện nay hệ thống định mức, tiêu chuẩn chi tiêu

Xem tất cả 230 trang.

Ngày đăng: 15/09/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí