Tổ chức hệ thống kiểm soát nội bộ trong các đơn vị dự toán trực thuộc Bộ Quốc phòng - 18

hình thành đồng bộ. Trong các đơn vị quốc phòng hiện chưa có văn bản pháp quy hướng dẫn tổ chức hệ thống KSNB. Từ đó các đơn vị dự toán trực thuộc BQP cũng chưa xây dựng Quy chế KSNB. Hệ thống các văn bản về chế độ kế toán và quản lý tài chính của Nhà nước vận dụng trong lĩnh vực an ninh, quốc phòng chưa thật đầy đủ (chưa quy định về chế độ cung cấp thông tin, yêu cầu trình độ người làm công tác kế toán ở từng cấp, một số đối tượng kế toán mới phát sinh nhưng chậm bổ sung tài khoản). Ngay việc triển khai Quyết định số 67/2004/QĐ-BTC ngày 13 tháng 8 năm 2004 của Bộ Tài chính về việc ban hành.“Quy chế về tự kiểm tra tài chính, kế toán tại các cơ quan, đơn vị có sử sụng kinh phí ngân sách Nhà nước” cũng chưa được cụ thể;

Hai là: Trình độ hiểu biết về hệ thống KSNB của lãnh đạo, chỉ huy đơn vị còn hạn chế. Những người có trách nhiệm trong quản lý chưa từng được đào tạo hay tập huấn những kiến thức cơ bản về hệ thống KSNB, các đơn vị còn thiếu những chuyên gia giỏi về hệ thống KSNB. Tâm lý quản lý theo sự thuận tiện đang còn khá phổ biến trong những người có trách nhiệm, cho rằng việc thực hiện các chính sách, thủ tục kiểm soát sẽ không được nhiều người ủng hộ;

Ba là: Công tác chỉ đạo của cơ quan quản lý cấp trên có lúc thiếu cụ thể, thiếu sâu sát, một số cán bộ cấp trên thiếu am hiểu thực tế. Trong tổ chức xây dựng lực lượng chậm điều chỉnh tổ chức biên chế, trong triển khai nhiệm vụ còn tình trạng ôm đồm, làm thay, can thiệp quá sâu, nên đã hạn chế tính chủ động của đơn vị. Công tác đầu tư để triển khai ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý tài chính còn chậm và chưa tương xứng;

Bốn là: Công tác thanh tra, kiểm tra của cấp trên và của các cơ quan nhà nước (Bộ Tài chính, Kiểm toán Nhà nước) chưa có tác dụng hướng dẫn nghiệp vụ một cách rõ ràng. Nhiều vấn đề nảy sinh trong quá trình thanh tra, kiểm toán nhưng vẫn không giải quyết triệt để, các kiến nghị đối với các cơ quan chức năng có thẩm quyền ban hành văn bản điều chỉnh chậm được giải quyết. Ví dụ: vấn đề điều tiết nguồn thu được do sử dụng đất liên doanh liên kết nhỏ lẻ chưa được phép của BQP; do tận dụng năng lực dôi dư để sản xuất, làm dịch vụ; nguồn hỗ trợ một phần hoạt động cung cấp dịch vụ mang tính đặc thù (rà phá bom mìn, dịch vụ hàng không, đảm bảo an ninh; chế độ thu nộp đối với các doanh nghiệp quân đội nằm trong đơn vị dự toán trực thuộc BQP... Điều đó làm cho hoạt động kiểm soát gặp nhiều khó khăn (thiếu văn bản quy định, hướng dẫn, thiếu tiêu chuẩn kiểm soát).

Về nguyên nhân chủ quan cũng nổi lên những mặt cơ bản sau:

Một là: Phân công, phân nhiệm còn nặng về cảm tính chưa xuất phát từ yêu cầu nhiệm vụ dẫn đến tình trạng ôm đồm, bao biện, làm thay (không phải động cơ tích cực mà vì lợi ích cá nhân); Cán bộ chỉ huy cấp dưới phần lớn thực hiện theo mệnh lệnh, chỉ thị của cấp trên, nhân viên thực hiện chức năng kiểm soát chưa có tính chuyên nghiệp cao, chưa phát huy được tính độc lập trong công việc. Công tác KSNB của các đơn vị chưa được đầu tư đúng mức, đặc biệt là trong nghiên cứu xây dựng các chính sách và thủ tục kiểm soát;

Hai là: Cơ chế tuyển chọn và đào tạo cán bộ, nhân viên ngành tài chính chưa được chú trọng, nặng về giải quyết chính sách. Các đơn vị tuyển chọn cán bộ, nhân viên ngành tài chính không qua thi tuyển, chủ yếu điều động quân số từ các ngành khác sau đó tự đi học tại chức ở các trường kinh tế, tài chính ngoài quân đội, chương trình đào tạo không sát, khi sử dụng phần lớn phải đào tạo lại nhưng chương trình đào tạo lại không thống nhất, chủ yếu theo kinh nghiệm; Chất lượng thi nâng bậc, nâng lương hàng năm không cao, đề thi không sát với từng loại đối tượng và thực tế công việc; Cơ quan tài chính cấp trên không nắm hết được thực lực trình độ chuyên môn nghiệp vụ của tất cả cán bộ cấp dưới;

Ba là: Vai trò tham mưu của cơ quan tài chính cho lãnh đạo, chỉ huy đơn vị về công tác tài chính còn hạn chế. Một số đơn vị, cơ quan tài chính chưa chủ động đề xuất để lãnh đạo, chỉ huy ban hành quy chế công tác tài chính nội bộ, chưa đề ra các biện pháp quản lý tài chính phù hợp với thực tiễn đơn vị. Một số đơn vị dập khuôn, máy móc các quy định nên nhiều công việc bị chậm tiến độ. Cơ quan tài chính bị động, làm việc theo mệnh lệnh, không phát huy được chức năng phân phối và giám đốc;

Bốn là: Chưa hình thành một nhu cầu kiểm soát thật sự. Một số chỉ huy đơn vị không mong muốn duy trì đúng nguyên tắc, kỷ luật tài chính do ngại khó vận dung linh hoạt để hoàn thành nhiệm vụ. Cơ chế quản lý hiện nay chưa thực sự gắn trách nhiệm của người chỉ huy đơn vị với kết quả quản lý, sử dụng tài chính vì chưa có tiêu chí rõ ràng, ranh giơí cụ thể để đánh giá hiêụ quả sử dụng tài sản. Điều đó dẫn đến tư tưởng coi nhẹ vai trò của hệ thống KSNB;

Năm là: Công tác đánh giá hiệu lực của hệ thống KSNB không toàn diện, không thường xuyên. Cho đến nay, các đơn vị vẫn chưa giao cho một cơ quan nào xem xét, đánh giá một cách toàn diện sự hiện diện và hiệu lực, hiệu quả của hệ thống KSNB đối với công tác quản lý tài chính của các đơn vị. Việc rà soát các văn bản (quy chế, quy định đã

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 230 trang tài liệu này.

ban hành), bổ sung hoặc thay thế hoàn toàn bị động, phụ thuộc vào cấp trên, rất ít đơn vị chủ động làm. Vì vậy, có tình trạng là văn bản, chính sách ban hành ra nhiều, thủ tục kiểm soát thiết lập đầy đủ nhưng việc áp dụng và phát huy hiệu quả của văn bản đến đâu thì không được xem xét kịp thời, chỉ đến khi nảy sinh vấn đề mới tiến hành chấn chỉnh, sửa đổi, bổ sung.

Sáu là: Do hoạt động không thường xuyên của các tổ chức kiêm nhiệm như: hội đồng quân nhân các cấp, hội đồng kiểm tra tài chính nội bộ các đơn vị cũng là nguyên nhân của những hạn chế nói trên. Ngoài ra, công tác kiểm tra, giám sát của uỷ ban kiểm tra Đảng các cấp, công tác thanh tra của phòng thanh tra các đơn vị phạm vi hẹp, số lượt đơn vị được thanh tra ít nên không có nhiều thông tin cảnh báo, tính răn đe không cao.

Tổ chức hệ thống kiểm soát nội bộ trong các đơn vị dự toán trực thuộc Bộ Quốc phòng - 18


KẾT LUẬN CHƯƠNG 2

Chương 2 đã trung nghiên cứu đặc điểm các đơn vị dự toán trực thuộc BQP, phân tích làm rõ ảnh hưởng của nó đến việc thiết kế, vận hành hệ thống KSNB;

Trên cơ sở kết quả khảo sát, điều tra tại 15 đơn vị đại diện cho các đơn vị dự toán trực thuộc BQP, Tác giả đã tập trung phân tích làm rõ thực trạng hệ thống KSNB ở các đơn vị được điều tra, đánh giá mức độ hiện hữu, hiệu lực của các bộ phận cấu thành hệ thống KSNB ở các đơn vị này và đi sâu phân tích một số chu trình nghiệp vụ chủ yếu; Trên cơ sở đó Luận án đã khái quát ưu, khuyết điểm của hệ thống KSNB đồng thời đi sâu phân tích nguyên nhân chủ quan từ phía các đơn vị và nguyên nhân khách quan từ phía các cơ quan quản lý nhà nước và BQP .

Những đánh giá trên là cơ sở để đề xuất mô hình tổ chức hệ thống KSNB trong các đơn vị dự toán trưc thuộc BQP cũng như các giải pháp hoàn thiện tổ chức hệ thống này cùng các kiến nghị để thực hiện giải pháp.

Chương 3

PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN TỔ CHỨC HỆ THỐNG KIỂM SOÁT NỘI BỘ TRONG CÁC ĐƠN VỊ DỰ TOÁN TRỰC THUỘC BỘ QUỐC PHÒNG

3.1. Sự cần thiết và phương hướng hoàn thiện tổ chức hệ thống kiểm soát nội bộ trong các đơn vị dự toán trực thuộc Bộ Quốc phòng

3.1.1. Sự cần thiết hoàn thiện tổ chức hệ thống kiểm soát nội bộ trong các đơn vị dự toán trực thuộc Bộ Quốc phòng

Các đơn vị dự toán trực thuộc BQP Việt Nam đã lập nhiều chiến công trong chiến đấu chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ. Để phát huy thành tích vẻ vang đó, trong giai đoạn mới- giai đoạn xây dựng quân đội nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại và hiện đại, các đơn vị tiếp tục phấn đấu, kế thừa truyền thống tốt đẹp của các thế hệ đi trước, trong đó có truyền thống đảm bảo và quản lý tài chính. Tuy nhiên, công cuộc phát triển kinh tế - xã hội của đất nước đang đứng trước yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế, yêu cầu đổi mới quản lý nền kinh tế, lành mạnh hóa nền tài chính quốc gia. Các đơn vị dự toán trực thuộc BQP cũng phải đối mặt với nhiều khó khăn trong công tác đảm bảo và quản lý tài chính. Qua phân tích mô hình tổ chức và đặc điểm của các đơn vị dự toán trực thuộc BQP Việt Nam cho thấy, việc tổ chức hệ thống KSNB trong những đơn vị này cũng gặp nhiều trở ngại từ nhiều phía do đặc thù của tổ chức và hoạt động quân sự. Những trở ngại đó được biểu hiện trước hết ở sự cồng kềnh về tổ chức biên chế, mặc dù các đơn vị đã tốn nhiều công sức xây dựng tổ chức biên chế mới nhưng bộ máy cũng không giảm được theo yêu cầu, kể cả một số bộ phận trong thời bình có thể chưa cần song không thể xóa bỏ; Phương thức đảm bảo tài chính cả về tiền lẫn hiện vật có gây khó khăn cho hoạt động kiểm soát, nhưng không thể chuyển sang phương thức đảm bảo toàn bộ dưới hình thức tiền tệ. Địa bàn đóng quân của một số đơn vị cơ sở phân tán, đan xen nhau nhưng không thể quy về một đầu mối quản lý vì không đảm bảo nhiệm vụ chỉ huy tác chiến. Trong hầu hết các đơn vị dự toán trực thuộc BQP đều tồn tại các doanh nghiệp kinh tế đơn thuần hoạt động theo Luật Doanh nghiệp. Việc quản lý tài chính đối với các doanh nghiệp này còn thiếu một cơ chế, thiếu cơ sở pháp lý nhưng chưa thể chuyển ngay ra ngoài quân đội; Hệ thống định mức kinh tế, tài chính về chi tiêu quân sự chưa đầy đủ. Do yêu cầu khẩn trương, kịp thời của công tác đảm bảo tài chính phục vụ nhiệm vụ quân sự nên đôi khi phải bỏ qua các thủ tục kiểm soát thông thường. Tính mệnh

lệnh, kỷ luật cao trong quân đội nhiều khi là áp lực khiến cán bộ kiểm soát phải hành động theo ý kiến của người chỉ huy hơn là tuân thủ các thủ tục quy định. Sự đa dạng của các chủng loại VK, TBKT, các chế độ, tiêu chuẩn trong cùng một đơn vị vượt quá khả năng hiểu biết của nhân viên tài chính cũng ảnh hưởng đến hiệu quả kiểm soát.

Xuất phát từ những khó khăn và những hạn chế trong việc thiết kế và hoạt động của hệ thống KSNB tại các đơn vị dự toán trực thuộc BQP, KSNB hiện nay còn chưa phù hợp với mục tiêu đặt ra cho chính hệ thống này. Cụ thể:

Thứ nhất: Chưa có văn bản hướng dẫn về tổ chức hệ thống KSNB trong các đơn vị dự toán quân đội, hệ thống văn bản pháp luật về quản lý tài chính trong lĩnh vực quốc phòng còn thiếu đồng bộ, manh mún, nhiều văn bản chồng chéo, trái ngược nhau;

Thứ hai: Hệ thống thông tin kế toán mới chỉ đáp ứng yêu cầu cung cấp thông tin cho cơ quan quản lý cấp trên, đối với nội bộ chưa đáp ứng đầy đủ, kịp thời cho việc ra quyết định quản lý, điều hành ngân sách, bảo quản và sử dụng tài sản trong đơn vị. Hệ thống kế toán nhiều cấp, việc đối chiếu số liệu giữa các cấp không thường xuyên, thời gian tổng hợp số liệu và phản hồi thông tin dài; chức năng kiểm soát của kế toán chưa được trú trọng; Mỗi đơn vị dự toán trực thuộc Bộ chưa thiết lập được hệ thống thông tin kế toán phù hợp và thống nhất phục vụ quản lý nội bộ (kế toán quản trị);

Thứ ba, KSNB chưa đảm bảo được tính hiệu lực trong việc sử dụng các nguồn lực cho thực hiện nhiệm vụ chính trị, quân sự, vẫn còn nặng tư tưởng “nước sông, công lính”; Thủ tục kiểm soát đã thiết kế chưa ngăn chặn triệt để tình trạng lãng phí, thất thoát tài sản trong mua sắm, trong sửa chữa công trình xây dựng, VK, TBKT. Nguyên nhân chính là do chưa phân cấp tài chính đầy đủ, chưa phân cấp ngân sách triệt để; Một số nội dung quản lý tài chính quá tập trung nhưng phân chia trách nhiệm không rõ ràng, không phát huy được vai trò, trách nhiệm của đơn vị cơ sở trong quản lý tài chính;

Từ thực tiễn trên, để công tác tài chính trong các đơn vị dự toán trực thuộc BQP hoàn thành nhiệm vụ, tất yếu phải tổ chức tốt hệ thống KSNB trong các đơn vị này.

3.1.2. Phương hướng hoàn thiện tổ chức hệ thống kiểm soát nội bộ trong các đơn vị dự toán trực thuộc Bộ Quốc phòng

Để hệ thống KSNB thực sự là phương sách quản lý tài chính hữu hiệu giúp Đảng ủy, chỉ huy các đơn vị nắm chắc tình hình tài chính, tổ chức điều hành ngân sách có hiệu quả, hệ thống KSNB phải được hoàn thiện theo phương hướng sau:

Một là: Hoàn thiện hệ thống KSNB phải đáp ứng được yêu cầu quản lý tài chính

trong điều kiện mở cửa và hội nhập của nền kinh tế, đặc biệt là xu thế lành mạnh hoá nền tài chính quốc gia, phù hợp với Luật Ngân sách, với các quy định của Nhà nước về quản lý tài chính, tài sản nhà nước trong lĩnh vực quốc phòng, an ninh đồng thời phải đáp ứng yêu cầu đầy đủ, kịp thời, phù hợp với đặc thù hoạt động trong môi trường tác chiến quân sự;

Hai là: Hoàn thiện hệ thống KSNB phải phù hợp với xu thế cải cách nền hành chính quốc gia, cải cách thủ tục hành chính gọn nhẹ nhưng vẫn đảm bảo tính chặt chẽ, đúng nguyên tắc. Phải tiến hành đồng bộ cả bốn nội dung: cải cách thể chế; cải cách tổ chức bộ máy; bồi dưỡng, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, cải cách tài chính công; cải cách tác phong và phương pháp công tác khoa học; Từ đó cần gắn việc hoàn thiện hệ thống KSNB của các đơn vị với việc xây dựng tác phong chính quy, xây dưng đơn vị từng bước chính quy, hiện đại;

Ba là: Hoàn thiện hệ thống KSNB phải đảm bảo phục vụ hoạt động của cả khối cơ quan, các phòng ban chức năng và các đơn vị trực thuộc, đáp ứng nhu cầu chi tiêu thường xuyên cũng như đột xuất của đơn vị; phải giải quyết hài hoà các mối quan hệ, tránh chồng chéo, đảm bảo hệ thống KSNB vươn tới tối đa những lĩnh vực tài chính phải quản lý và không được trái với các chính sách khác;

Bốn là: Việc tổ chức hệ thống KSNB trong các đơn vị dự toán trực thuộc BQP cần được thực hiện trên cơ sở tham khảo kinh nghiệm quốc tế và phù hợp với điều kiện Việt Nam trên cơ sở phát huy truyền thống công tác đảm bảo và quản lý tài chính của các đơn vị trong các thời kỳ trước, rút ra những bài học kinh nghiệm nhằm giảm tới mức thấp nhất các rủi ro, nâng cao hiệu quả sử dụng ngân sách.

3.2. Giải pháp hoàn thiện tổ chức hệ thống kiểm soát nội bộ trong các đơn vị dự toán trực thuộc Bộ Quốc phòng

3.2.1. Xác định mô hình tổ chức hệ thống kiểm soát nội bộ trong các đơn vị dự toán trực thuộc Bộ Quốc phòng

Căn cứ vào quy định của Nhà nước và trên cơ sở nghiên cứu thực trạng hệ thống KSNB trong các đơn vị dự toán trực thuộc BQP, để phù hợp với đặc điểm quy mô, tính chất nhiệm vụ, Tác giả đề xuất tổ chức hệ thống KSNB trong các đơn vị này theo mô hình trong Sơ đồ 3.1 với ba nội dung: Tạo dựng môi trường kiểm soát vững mạnh; tổ chức hệ thống thông tin kế toán gồm cả kế toán tài chính và kế toán quản trị; thiết kế các thủ tục kiểm soát cho các chu trình nghiệp vụ cụ thể. Trong đó đặc biệt chú trọng chất

lượng tổ chức bộ máy kiểm soát và hoạt động kiểm tra tài chính các đơn vị trực thuộc. Để hệ thống KSNB thực sự trở thành phương sách quản lý tài chính hữu hiệu, việc tổ chức hệ thống này trong các đơn vị dự toán trực thuộc BQP phải được tiến hành khoa học, đồng bộ theo lộ trình phù hợp với thông lệ phổ biến và đặc điểm đơn vị dự toán trực thuộc BQP và với các mục tiêu ngắn hạn và dài hạn.


Hệ thống KSNB

Trong đơn vị dự toán trực thuộc BQP



* Môi trường kiểm soát bên trong:

- Nhận thức của lãnh đạo, chỉ huy đơn vị;

- Phân bổ quyền lực trong quản lý, điều hành

- Nguyên tắc tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách

- Cơ chế chính uỷ, chính trị viên

- Quy chế lãnh đạo của cấp uỷ đảng đối với công tác tài chính

* Xây dựng quy chế quản lý tài chính nội bộ trong đó xác định:

- Quan hệ chỉ huy, phục tùng; quan hệ chỉ đạo nghiệp vụ

- Cơ cấu tổ chức

- Công tác kế hoạch

- Chính sách nhân sự

- Các phong trào thi đua

* Môi trường kiểm soát bên ngoài

- Hệ thống văn bản pháp luật của Nhà nước, BQP

- Công tác thanh tra, kiểm tra của BQP, Bộ Tài chính, Kiểm toán Nhà nước


Hệ thống thông tin kế toán

* Kế toán tài chính

- Hệ thống chứng từ kế toán

- Hệ thống tài khoản kế toán

- Hệ thống sổ kế toán

- Hệ thống báo cáo kế toán

* Kế toán quản trị

- Xây dựng các mẫu biểu, chỉ tiêu theo yêu cầu của chỉ huy đơn vị

- Quy định chế độ xử lý thông tin, chế độ báo cáo, sử dụng thông tin nội bộ

Thủ tục kiểm soát

* Quy định về

- Phân công, phân nhiệm

- Uỷ quyền phê chuẩn

- Bất kiêm nhiệm xác định:

- Trình tự, thủ tục kiểm soát đối với các chu trình nghiệp vụ: Lập; phân bổ ngân sách; cấp phát; quyết toán kinh phí; Mua sắm tài sản; các hoạt động có thu; thu, chi quỹ vốn đơn vị.

- Xây dựng thủ tục trong quan hệ giữa cá nhân với tập thể

- Xây dựng cách thức phối hợp giữa các cá nhân, tập thể trong kiểm soát


Sơ đồ 3.1: Mô hình tổ chức hệ thống KSNB đơn vị dự toán trực thuộc BQP (đề xuất)

3.2.2. Tạo dựng môi trường kiểm soát vững mạnh

Thứ nhất: Nâng cao nhận thức, quan điểm và chất lượng chỉ đạo của cấp uỷ Đảng và người chỉ huy các cấp về hệ thống KSNB.

Quan điểm, nhận thức và thái độ hành động của Đảng uỷ và người chỉ huy cấp cao trong đơn vị ảnh hưởng trực tiếp đến việc tạo lập nền nếp chấp hành chế độ quản lý tài chính trong đơn vị và hiệu quả hoạt động, hiệu lực của kiểm tra, kiểm soát. Như đã nêu ở mục 2.3.2, một trong những nguyên nhân dẫn đến hệ thống KSNB ở một số đơn vị kém hiệu lực là do sự hiểu biết về hệ thống KSNB không đầy đủ, chưa thấy hết vai trò của hệ thống này trong quản lý tài chính nên chưa tìm ra được khiếm khuyết của hệ thống, chưa có biện pháp chỉ đạo kiên quyết để khắc phục thiếu sót, tồn tại. Lãnh đạo chỉ huy đơn vị là những người có vai trò quyết định chi phối đến việc thiết kế, vận hành của hệ thống KSNB, quyết định các chính sách và thủ tục kiểm soát áp dụng trong đơn vị. Do vậy, để nâng cao hiệu lực hệ thống KSNB trong các đơn vị dự toán trực thuộc BQP, trước hết BQP phối hợp với Bộ Tài chính tổ chức các đợt tập huấn nhằm nâng cao nhận thức, quan điểm và chất lượng chỉ đạo của cấp uỷ Đảng và người chỉ huy các cấp về hệ thống KSNB.

Về lâu dài, cần trang bị những kiến thức cơ bản về quản lý kinh tế tài chính cho người chỉ huy các cấp, nhất là những người làm chủ tài khoản, bằng cách đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ, năng lực về quản lý tài chính nói chung và hệ thống KSNB nói riêng cho học viên là cán bộ chỉ huy trung đoàn, sư đoàn từ trong nhà trường. Trong nội dung, chương trình giảng dạy của các học viện, nhà trường, bên cạnh các kiến thức quân sự là chủ yếu, cần có một số học trình về tài chính, kế toán (kiến thức phải thường xuyên cập nhật) để những đối tượng này sau khi ra trường, nếu được bổ nhiệm vào vị trí chỉ huy và làm chủ tài khoản của đơn vị sẽ có đủ khả năng đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ. Ngoài ra, cơ quan tài chính đơn vị dự toán trực thuộc BQP cũng cần tổ chức tập huấn một số kiến thức cơ bản về KSNB để chỉ huy các cấp có những hiểu biết nhất định về các yếu tố cấu thành và vai trò của hệ thống KSNB, từ đó có biện pháp phát huy vai trò tham mưu, giúp việc của các cơ quan nghiệp vụ, đặc biệt là cơ quan tài chính, dành sự quan tâm thích đáng để khắc phục những khiếm khuyết, tồn tại, đảm bảo hoàn thiện hệ thống KSNB một cách tốt nhất.

Cụ thể hóa Quy chế Lãnh đạo của cấp uỷ Đảng các cấp về công tác tài chính phù hợp trong từng đơn vị. Trước hết cần quán triệt đầy đủ nội dung Quy chế Lãnh đạo của

Xem tất cả 230 trang.

Ngày đăng: 15/09/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí