Luận văn
Tổ chức công tác kế toán tập hợp chi phí và tính giá thành sản phẩm tại Xí nghiệp Sông Đà 12-6
Mục Lục
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ KẾ TOÁN TẬP HỢP CHI PHÍ SẢN XUẤT VÀ TÍNH GIÁ THÀNH SẢN PHẨM Ở DOANH NGHIỆP XÂY DỰNG CƠ BẢN 5
1.1. Sự cần thiết tổ chức kế toán tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm trong Doanh nghiệp Xây dựng cơ bản 5
1.1.1. Đặc điểm ngành Xây dựng cơ bản và sản phẩm xây lắp tác động đến công tác kế toán 5
1.1.2. Yêu cầu và nhiệm vụ của công tác quản lý, hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm trong Doanh nghiệp xây dựng cơ bản. ..6
1.2. Những vấn đề lý luận về kế toán tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm trong Doanh nghiệp xây dựng cơ bản 8
1.2.1. Khái niệm chi phí sản xuất và phân loại chi phí sản xuất trong Xây dựng cơ bản 8
Có thể bạn quan tâm!
- Tổ chức công tác kế toán tập hợp chi phí và tính giá thành sản phẩm tại Xí nghiệp Sông Đà - 2
- Kế Toán Tập Hợp Chi Phí Sản Xuất Trong Doanh Nghiệp Xây
- Đối Tượng Phương Pháp Tính Giá Thành Sản Phẩm Xây Lắp.
Xem toàn bộ 90 trang tài liệu này.
1.2.2. Giá thành và phân loại giá thành sap xây lắp 11
1.2.3. Mối quan hệ giữa chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm 13
1.3. Phương pháp kế toán tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm trong Doanh nghiệp xây dựng cơ bản 14
1.3.1. Phương pháp kế toán tập hợp chi phí sản xuất 14
1.3.2. Đánh giá sản phẩm dở dang trong Doanh nghiệp xây lắp 22
1.3.3. Đối tượng phương pháp tính giá thành sản phẩm xây lắp 24
1.4. Hệ thống sổ sách kế toán sử dụng để tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm ở Doanh nghiệp xây dựng cơ bản 26
Chương 2: THỰC TRẠNG CÔNG TÁC KẾ TOÁN TẬP HỢP CHI PHÍ SẢN XUẤT VÀ TÍNH GIÁ THÀNH SẢN PHẨM TẠI XÍ NGHIỆP SÔNG ĐÀ 12-6 28
2.1. Vài nét về quá trình thành lập và sản xuất kinh doanh của Xí nghiệp Sông Đà 12-6 28
2.1.1. Quá trình hình trình hình thành và phát triển của Xí nghiệp Sông
Đà 12-6 28
2.1.2. Đặc điểm hoạt động sản xuất kinh doanh của Xí nghiệp 29
2.1.3. Tổ chức bộ máy quản lý của Xí nghiệp 29
2.1.4. Đặc điểm tổ chức công tác kế toán Xí nghiệp Sông Đà 12-6 31
2.2.1. Kế toán tập hợp chi phí sản xuất tại xí nghiệp Sông Đà 12-6 37
2.2.2. Đánh giá sản phẩm dở dang cuối kỳ 57
2.2.3. Tính giá thành sản phẩm ở Xí nghiệp Sông Đà 12.6 58
Cộng phát sinh quý 4 60
Chương 3: HOÀN THIỆN CÔNG TÁC KẾ TOÁN TẬP HỢP CHI PHÍ SẢN XUẤT VÀ TÍNH GIÁ THÀNH SẢN PHẨM TẠI XÍ NGHIỆP SÔNG ĐÀ 12.6 67
3.1. Sự cần thiết phải hoàn thiện công tác kế toán tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm 67
3.2. Những nhận xét chung về công tác kế toán tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm xây lắp ở Xí nghiệp Sông Đà 12.6 69
3.3. Hoàn thiện công tác kế toán tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm tại Xí nghiệp Sông Đà 12.6 73
LỜI NÓI ĐẦU
Trong những năm gần đây, nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN ở nước ta đang có những bước phát triển mạnh mẽ, tốc độ phát triển cơ sở hạ tầng vì thế mà cũng phát triển nhanh chóng làm thay đổi bộ mặt của đất nước từng ngày, từng giờ. Điều đó không chỉ có nghĩa khối lượng công việc của ngành XDCB tăng lên mà kéo theo đó là số vốn đầu tư XDCB cũng gia tăng. Vấn đề đặt ra làm sao để quản lý vốn một cách có hiệu quả, khắc phục tình trạng thất thoát, lãng phí vốn trong điều kiện sản xuất kinh doanh xây lắp phải trải qua nhiều giai đoạn (từ thiết kế, lập dự án, thi công đến nghiệm thu....), thời gian thi công kéo dài nhiều tháng, nhiều năm.
Chính vì lẽ đó hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành là một phần cơ bản, không thể thiếu của công tác hạch toán kế toán đối với không chỉ đối với các Doanh nghiệp mà rộng hơn là đối với cả xã hội.
Với các Doanh nghiệp, thực hiện công tác hạch toán kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm làm cơ sở để giám sát các hoạt động, từ đó khắc phục những tồn tại, phát huy những tiềm năng đảm bảo cho doanh nghiệp luôn đứng vững trong cơ chế thị trường luôn tồn tại cạnh tranh và nhiều rủi ro như hiện nay.
Với Nhà nước, công tác hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành ở Doanh nghiệp cơ sở để Nhà nước kiểm soát vốn đầu tư XDCB và kiểm tra việc chấp hành chế độ, chính sách tài chính của các Doanh nghiệp.
Nhận thức được vấn đề đó, với những kiến thức đã tiếp thu được tại trường cùng thời gian tìm hiểu thực tế công tác kế toán tại Xí nghiệp Sông Đà 12-6. Được sự giúp đỡ nhiệt tình của các thầy, cô giáo cùng toàn thể các anh chị Phòng Tài chính - Kế toán của Xí nghiệp, em đã đi sâu nghiên cứu đề tài "Tổ chức công tác kế toán tập hợp chi phí và tính giá thành sản phẩm tại Xí nghiệp Sông Đà 12-6".
Nội dung của đề tài được chia làm 03 chương như sau:
Chương 1: Cơ sở lý luận về kế toán tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm ở Doanh nghiệp xây dựng cơ bản.
Chương 2: Thực trạng công tác kế toán tập hợp chi phí sản xuất
và tính giá thành sản phẩm tại Xí nghiệp Sông Đà 12-6.
Chương 3:Hoàn thiện công tác kế toán tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm tại Xí nghiệp Sông Đà 12-6
Do quỹ thời gian thực tập có hạn, bản thân chưa có nhiều kiến thức thực tế, kinh nghiệm nghiên cứu còn hạn chế nên chuyên đề không tránh khỏi những thiếu sót nhất định. Bởi vậy, em rất mong nhận được những ý kiến đóng góp, chỉ bảo của thầy, cô giáo và anh chị Phòng Tài chính - Kế toán của Xí nghiệp để bài viết của em được hoàn thiện hơn.
Qua đây em cũng xin bày tỏ lòng cảm ơn sâu sắc đến cô giáo Mai Bích Ngọc, các anh chị Phòng Tài chính - Kế toán Xí nghiệp Sông Đà 12-6 đã tận tình hướng dẫn và giúp đỡ em hoàn thành chuyên đề này.
Hà Nội, tháng 7 năm 2003 Tác giả chuyên đề
Nguyễn Thị Hạnh
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ KẾ TOÁN TẬP HỢP CHI PHÍ SẢN XUẤT VÀ TÍNH GIÁ THÀNH SẢN PHẨM Ở DOANH
NGHIỆP XÂY DỰNG CƠ BẢN
1.1. Sự cần thiết tổ chức kế toán tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm trong Doanh nghiệp Xây dựng cơ bản.
1.1.1. Đặc điểm ngành Xây dựng cơ bản và sản phẩm xây lắp tác động đến công tác kế toán.
Cũng như bất kì ngành sản xuất nào khác. Xây dựng cơ bản (XDCB) khi tiến hành sản xuất - kinh doanh - Thực chất là quá trình biến đổi đối tượng trở thành sản phẩm, hàng hoá. Trong nhóm các ngành tạo ra của cải vật chất cho xã hội, ngành XDCB là ngành sản xuất vật chất độc lập, có chức năng tái tạo Tài sản cố định (TSCĐ) cho nền kinh tế, tạo cơ sở vật chất kỹ thuật cho xã hội, tăng tiềm lực kinh tế - quốc phòng cho đất nước. Do vậy, XDCB luôn thu hút một bộ phận không nhỏ vốn đầu tư trong nước và nước ngoài, đồng thời cũng là ngành chiếm tỷ trọng lớn trong tổng thu nhập quốc dân (GDP). So với các ngành sản xuất, XDCB mang những nét đặc thù với những đặc điểm kỹ thuật riêng được thể hiện rõ qua đặc trưng về sản phẩm xây lắp và quá trình tạo sản phẩm.
Thứ nhất, sản phẩm xây lắp là các công trình, vật kiến trúc có quy mô lớn, kết cấu phức tạp và mang tính đơn chiếc, thời gian sản xuất dài, trình độ kỹ thuật thẩm mĩ cao. Do vậy việc tổ chức quản lý phải nhất thiết có dự toán, thiết kế và thi công. Trong suốt quá trình xây lắp, giá dự toán sẽ trở thành thước đo hợp lý hạch toán các khoản chi phí và thanh quyết toán các công trình.
Thứ hai, mỗi công trình xây dựng gắn với vị trí nhất định, nó thường cố định tại nơi sản xuất còn các điều kiện sản xuất khác như: Lao động, vật tư, thiết bị máy móc... luôn phải di chuyển theo mặt bằng và vị trí thi công mà mặt bằng và vị trí thi công thường nằm rải rác khắp nơi
và cách xa trụ sở đơn vị. Do đó, luôn tồn tại một khoảng cách lớn giữa nơi trực tiếp phát sinh chi phí và nơi hạch toán chi phí đã gây không ít khó khăn cho công tác kế toán các đơn vị. Mặt khác hoạt động xây lắp lại tiến hành ngoài trời, thường chịu ảnh hưởng của các nhân tố khách quan như: thời tiết, khí hậu...nên dễ dẫn đến tình trạng hao hụt, lãng phí vật tư, tiền vốn......làm tăng chi phí sản xuất.
Thứ ba, khi bắt đầu thực hiện hợp đồng, giá trị công trình đã được xác định thông qua giá trúng thầu hoặc giá chỉ định thầu. Điều đó có nghĩa là sản phẩm xây lắp thường được tiêu thụ theo giá trị dự toán hoặc giá thoả thuận với chủ đầu tư từ trước. Do đó, có thể nói tính chất hàng hoá của sản phẩm xây lắp không được thể hiện rõ.
Thứ tư, xét về quá trình tạo ra sản phẩm xây lắp, từ khi khởi công đến khi thi công hoàn thành, bàn giao đưa vào sử dụng, thời gian thường dài, phụ thuộc vào quy mô tính chất phức tạp của từng công trình. Bên cạnh đó, quá trình thi công xây dựng được chia thành nhiều giai đoạn khác nhau, mỗi giai đoạn được chia thành nhiều công việc khác nhau...
Từ những đặc điểm trên đây, đòi hỏi công tác kế toán vừa phải đáp ứng những yêu cầu chung về chức năng, nhiệm vụ kế toán một Doanh nghiệp sản xuất vừa phải đảm bảo phù hợp đặc trưng riêng của ngành XDCB nhằm cung cấp thông tin chính xác, kịp thời, cố vấn lãnh đạo cho việc tổ chức quản lý để đạt hiệu quả cao trong sản xuất - kinh doanh của Doanh nghiệp.
1.1.2. Yêu cầu và nhiệm vụ của công tác quản lý, hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm trong Doanh nghiệp xây dựng cơ bản.
1.1.2.1. Yêu cầu quản lý đối với công tác hạch toán chi phí sản xuất
và tính giá thành sản phẩm xây lắp.
Như đã trình bày ở trên, sản xuất XDCB có những đặc thù riêng từ đó làm cho việc quản lý về XDCB khó khăn phức tạp hơn một số ngành
khác. Chính lẽ đó, trong quá trình đầu tư, XDCB phải đáp cứng được các yêu cầu là :" Công tác quản lý đầu tư XDCB phải đảm bảo tạo ra những sản phẩm dịch vụ được xã hội và thị trường chấp nhận về giá cả, chất lượng và đáp ứng các mục tiêu phát triển KT-XH trong từng thời kì, chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH- HĐH, đẩy mạnh tốc độ tăng trưởng kinh tế, nâng cao đời sống vật chất tinh thần của nhân dân.
Huy động và sử dụng có hiệu quả cao nhất các nguồn vốn đầu tư trong nước cũng như các nguồn vốn đầu tư nước ngoài đầu tư vào Việt Nam, khai thác tốt tài nguyên, tiềm năng lao động, đất đai và mọi tiềm lực khác nhằm động viên tất cả những tiềm năng của đất nước phục vụ cho quá trình tăng trưởng phát triển nền kinh tế, đồng thời bảo vệ môi trường sinh thái. Xây dựng phải theo quy hoạch được duyệt, thiết kế hợp lý, tiên tiến, thẩm mĩ, công nghệ hiện đại, xây dựng đúng tiến độ đạt chất lượng cao với chi phí hợp lý và thực hiện bảo hành công trình"
(Trích điều lệ Quản lý và xây dựng ban hành kèm theo Nghị định
số 177/CP ngày 20/10/1994 của Chính phủ {03}).
Ở nước ta trong nhiều năm qua, do việc quản lý vốn đầu tư trong lĩnh vực XDCB chưa thật chặt chẽ đã để xảy ra tình trạng thất thoát vốn đầu tư và kéo theo đó là hàng loạt các hậu quả nghiêm trọng khác...Từ thực trạng đó, Nhà nước đã thực hiện quản lý xây dựng thông qua việc ban hành các chế độ, chính sách về giá, các nguyên tắc các phương pháp lập dự toán, các căn cứ định mức kinh tế- kỹ thuật...Từ đó xác định tổng mức VĐT, tổng dự toán công trình...nhằm hạn chế sự thất thoát vốn đầu tư của Nhà nước, nâng cao hiệu quả cho quá trình đầu tư.
Trong cơ chế thị trường hiện nay, mục tiêu hàng đầu của các Doanh nghiệp (DN) nói chung phải tăng cường quản lý kinh tế mà trước hết là quản lý chi phí sản xuất và tính giá sản phẩm.