thời đại, một dân tộc. Ở đó chứa đựng cả một nền văn hoá tinh tế với tâm linh của người làm chủ mảnh đất này, những người di cư từ vùng trong ra đây lập nghiệp trên dưới trăm năm qua. Họ đã đứng chân tại đây và dựng nên một vùng văn hoá của dân tộc lâu bền vùng non nước phía Đông Bắc của tổ quốc.
2.2.2 Tài nguyên du lịch tự nhiên
2.2.2.1 Vị trí địa lý
Tiên Yên là huyện miền núi ven biển, nằm ở trung tâm các khu vực miền Đông tỉnh Quảng Ninh có toạ độ địa lý
Từ 21011’ đến 21033’ vĩ độ Bắc,
Từ 107013’ đến 107032’ kinh độ Đông,
Phía Bắc giáp huyện Bình Liêu, Đình Lập (tỉnh Lạng Sơn), Phía Tây giáp huyện Ba Chẽ, thị xã Cẩm Phả,
Phía Nam giáp huyện Vân Đồn, Phía Đông giáp huyện Đầm Hà,
Huyện Tiên Yên có tổng diện tích đất đai tự nhiên là 64.789 ha chiếm 10,61% diện tích đất tự nhiên của tỉnh. Có bờ biển dài 35km tiếp giáp với vịnh Bắc Bộ là điều kiện thuận lợi để giao lưu kinh tế và phát triển kinh tế biển. Có hệ thống giao thông đường bộ thuận tiện nối từ Tiên Yên đi các huyện thị, thành phố trong tỉnh và đến các huyện thị, thành phố trong toàn quốc qua quốc lộ 18A.
Có thể bạn quan tâm!
- Tìm hiểu tiềm năng phát triển du lịch huyện Tiên Yên tỉnh Quảng Ninh - 1
- Tìm hiểu tiềm năng phát triển du lịch huyện Tiên Yên tỉnh Quảng Ninh - 2
- Tiềm Năng Phát Triển Du Lịch Huyện Tiên Yên
- Các Đối Tượng Du Lịch Gắn Với Dân Tộc Học
- Đánh Giá Tài Nguyên Du Lịch Huyện Tiên Yên
- Thực Trạng Cơ Sở Hạ Tầng Và Cơ Sở Vật Chất Kỹ Thuật Phục Vụ Cho Du Lịch Của Huyện Tiên Yên
Xem toàn bộ 76 trang tài liệu này.
Tiên Yên có 12 đơn vị hành chính cấp cơ sở gồm 1 thị trấn và 11 xã: Đại Dực, Yên Than, Hà Lâu, Phong Dụ, Điền Xá, Hải Lạng, Tiên Lãng, Đông Ngũ, Đông Hải, Đồng Rui và Đại Thành. Thị trấn Tiên Yên là trung tâm kinh tế, chính trị, văn hoá của huyện, cách trung tâm tỉnh (thành phố Hạ Long) 90km về phía Tây theo quốc lộ 18A, cách cửa khẩu Hoành Mô (qua thị trấn Bình Liêu) 50km về phía Bắc theo quốc lộ 18C, cách cửa khẩu quốc tế Móng Cái 90km về phía Đông theo quốc lộ 18A, cách khu kinh tế mở và Vân Đồn khoảng 50 km về phía Tây Nam theo quốc lộ Vân Tiên.
Vị trí địa lý huyện Tiên Yên khá thuận lợi để phát triển kinh tế - xã hôi
và du lịch. Giáp các đô thị lớn Móng Cái, Hạ Long và vùng kinh tế năng động duyên hải của miền Nam nước cộng hoà nhân dân Trung Hoa qua cửa khẩu quốc tế Móng Cái và Hoành Mô, là cửa ngõ ra biển của vùng trung du miền núi phía Bắc.
2.2.2.2 Địa hình địa mạo
Tiên Yên là huyện có địa hình trung du miền núi ven biển, nằm trong cánh cung Đông Triều Móng Cái. Phía Đông Bắc là vùng đồi núi thấp, phía Nam là vùng phù sa ven biển. Địa hình Tiên Yên được chia làm 3 vùng chính: vùng đồi núi phía Tây Bắc, vùng phù sa cổ, vùng phù sa mới.
Tiên Yên là vùng đất thung lũng, đồi núi chen lẫn, chia cắt bởi sông suối. Phía Tây Bắc có dãy núi Cái Kỳ với đỉnh cao nhất Ngà Là chạy dài ra cửa sông Ba Chẽ theo hướng Đông Bắc Tây Nam, trở thành ranh giới tự nhiên giữa Tiên Yên và Ba Chẽ. Dưới chân núi là một dải đồng bằng ven biển và vùng đầm đảo Hà Dong thuộc các xã giầu nhất huyện: Đồng Rui và Hải Lạng.
Phía Bắc rừng núi điệp trùng một màu xanh của hồi, quế, keo, thông, của các xã vùng cao, vùng sâu, vùng xa như Điền Xá, Hà Lâu, Phong dụ. Phía Đông có dãy Pạc Sủi và Thang Châu chạy theo hướng Bắc Nam, thấp dần xuống phía biển tạo thành vùng đồng bằng duyên hải của các xã Đông Ngũ, Đông Hải - vựa lúa no ấm của Tiên Yên. Qua dãy Pạc Sủi là thung lũng xã Đại Dực. Từ trên cao nhìn xuống ruộng bậc thang uốn lượn và những nếp nhà sàn cao thấp của đồng bào Sán Chỉ đẹp như một bức tranh. Ở đây có đặc sản dầu sở, có miến dong nổi tiếng. Những bãi cỏ rộng dài thuận lợi cho việc chăn thả trâu bò. Dưới chân dãy Pạc Sủi là những rừng quế chạy dài tạo nên đặc sản quế Khe Táu. Thung lũng Tiên Yên nằm lọt giữa hai dãy núi Cái Kỳ và Pạc Sủi được tạo nên bởi hai chi lưu sông, một dòng có tên Tiên Yên từ Đồng Văn Bình Liêu về, một dòng mang tên phố cũ từ núi rừng phía Đông Bắc Đình Lập Lạng Sơn tới. Hai dòng này hợp ở thác Bưởi chạy vào vịnh Vạn Hoa. Thị trấn Tiên Yên nằm trên vùng đất giữa hai con sông ấy.
2.2.2.3 Khí hậu
Là huyện miền núi trung du ven biển, có địa hình phức tạp, đồi núi chạy rất sát biển nên hình thành nhiều tiểu vùng khí hậu khác nhau, nổi bật là khí hậu miền núi và duyên hải.
Nhiệt độ khí hậu:
Ở những vùng thấp dưới 200m có tổng tích ôn năm là 80000C và nhiệt độ trung bình là 22,40C, vùng cao từ 200 – 700m có tổng tích ôn 75000C và nhiệt độ trung bình là 19 -260C. Vùng núi cao trên 700m có tổng tích ôn 60000C và nhiệt độ trung bình là 190C.
Mùa mưa
Lượng mưa trung bình hàng năm khoảng 2385mm, năm cao nhất lên đến 3667,4mm, năm thấp nhất là 1103,8mm. Số ngày mưa trong năm trung bình là 163 ngày, mùa mưa nhiều nhất từ tháng 5 đến tháng 10, mùa mưa ít từ tháng 11 đến tháng 4 năm sau, lượng mưa phân bố không đều trong năm, mưa thường tập tung từ tháng 3 đến tháng 9 chiếm 80-85% tổng lượng mưa cả năm, lượng mưa lớn nhất vào tháng 7 khoảng 452mm, lượng mứ nhỏ nhất vào tháng 12 và tháng 1 khoảng 30mm.
Độ ẩm không khí
Tuy có lượng mưa lớn, nhưng lượng bốc hơi nước trung bình hàng năm thấp (26%) nên độ ẩm không khí trung bình hàng năm khá cao 84%, độ ẩm không khí cao nhất vào tháng 3 và tháng 4 đạt tới trị số 87 - 88%, thấp nhất vào tháng 10 và tháng 11 đạt trị số 76%. Nhìn chung độ ẩm không khí ở Tiên Yên không chênh lệch lắm so với các vùng bởi nó phụ thuộc vào độ cao, địa hình và phân hoá theo mùa, mùa nhiều mưa có độ ẩm không khí cao hơn mùa ít mưa.
Gió
Có hai loại gió chính thổi theo hướng Bắc-Đông Bắc và Nam-Đông Nam.Gió Đông Bắc thường hoạt động từ tháng 10 đến tháng 4 năm sau, tốc độ gió trung bình 2 - 4m/s, đặc biệt khi gió Đông Bắc tràn về thường lạnh, gió rét và khô hanh. Mùa hè gió thổi theo hướng Nam - Đông Nam từ tháng 5 đến
tháng 9, gió thổi từ biển vào mang theo nhiều hơi nước gây ra mưa, tốc độ gió trung bình từ 2 - 4m/s.
2.2.2.4 Tài nguyên nước
Nước mặt: có nhiều suối nhỏ bắt nguồn từ vùng đồi núi chảy ra phía biển, lớn nhất chỉ có sông Tiên Yên được bát nguồn từ dãy núi Khoảng Nam Châu Lĩnh có độ cao 1175m thuộc huyện Bình Liêu, sông dài 82km có diện tích lưu vực 1070km2, lưu lượng thấp nhất 28m3/s, lưu lượng lớn nhất 2090m3/s, sông có 7 nhánh.Lượng nước của các con sông ở đây khá phong phú.
Nước ngầm: có trữ lượng lớn đảm bảo được nhu cầu nước cho đời sống sinh hoạt và sản xuất của nhân dân, đặc biệt là sản xuất nông nghiệp, công nghiệp và dịch vụ.
Chất lượng nước: chất lượng môi trường nước mặt và nước ngầm còn tương đối tốt, ít bị ảnh hưởng tác động từ môi trường bên ngoài.
2.2.2.5 Tài nguyên đất
Đất đai Tiên Yên chia thành 2 vùng chính: vùng đất đồng bằng ven biển và vùng đất đồi núi.
-Vùng đất đồng bằng ven biển có 3 loại chính:
+ Đất cồn cát, bãi cát: được phân bố ở các xã ven biển như Tiên Lãng, Đồng Rui, Hải Lạng, Đông Ngũ và thị trấn Tiên Yên. Có diện tích khoảng 350 ha chiếm 0,54% diện tích đất tự nhiên của huyện
+ Đất mặn: được phấn bố chủ yếu ở các xã ven biển và rất phức tạp do tác động của con người, sự xâm nhập của nước biển mà hình thành nhiều loại khác nhau. Diện tích đất khá lớn vào khoảng 9380,2 ha chiếm 14,53% diện tích đất tự nhiên của huyện.
+ Đất phù sa sông: Đây là những dải rất hẹp chạy dọc theo các triền sông Tiên Yên, sông Phố Cũ, sông Ba Chẽ và một số nhánh sông khác. Diện tích là 1135,2 ha chiếm 1,76% diện tích đất tự nhiên của huyện.
-Vùng đồi núi gồm các loại sau:
+ Đất lúa nước vùng đồi núi: bao gồm đất dốc tụ, đất thung lũng, đất feralit biến đổi do trồng lúa bị bạc màu, đất feralit biến đổi do trồng lúa chưa bị bạc màu. Diện tích là 1518,8 ha chiếm 2,35% diện tích đất tự nhiên của huyện.
+ Đất feralit điển hình nhiệt đới ẩm: là vùng đất có độ cao từ 25 - 175m nối tiếp nhau chạy dọc từ Tây sang Đông. Địa hình dốc thoải ra biển, có nơi địa hình như bát úp, đỉnh và sườn một số bị xói mòn không có khả năng canh tác. Diện tích khoảng 28868,5 ha chiếm 44,72% diện tích đất tự nhiên của huyện.
+ Đất feralit trên núi: là vùng núi độ cao từ 175 - 700m được phân bố chủ yếu ở khu vực phía Bắc của huyện. Loại đất này được phát triển trên đá trầm tích và mắc ma axít, có độ dốc lớn. Thảm thực vật phủ trên đất chủ yếu là cây cỏ tranh và cây bụi. Diện tích khoảng 13247,7 ha chiếm 20,5% diện tích đất tự nhiên của huyện.
+ Đất feralit vàng nhạt trên núi: loại đất này nằm ở độ cao từ 700m trở nên, có độ dốc lớn từ 12 đến 25 độ phân cách, hiểm trở,phức tạp. Diện tích khoảng 205,9 ha chiếm 0,31% diện tích đất tự nhiên của toàn huyện.
2.2.2.6 Động thực vật
Động thực vật rất phong phú về chủng loại. Trên rừng, thực vật có 1020 loài thuộc 6 ngành và 171 họ. Một số ngành lớn như ngành Mộc Lan 951 loài, ngành Dương Xỉ 58 loài, ngành thông 11 loài.Về động vật có khoảng 127 loài trong đó lưỡng cư 11 loài, bò sát 5 loài, chim 67 loài, thú 34 loài.
Biển Tiên Yên có nhiều vùng sinh thái khác nhau tạo ra một hệ sinh vật biển phong phú, đa dạng. Là nơi sinh sống của nhiều loại hải sản có gia trị như tôm he, các song, cá cháp, cá vược, cua, ghẹ...Trữ lượng thuỷ sản khoảng
6.500 tấn, khả năng cho phép khai thác ổn định khoảng 3.500 tấn trong đó chủ yếu là các loài tôm và các loại hải sản khác.
2.2.3 Tài nguyên du lịch nhân văn
2.2.3.1 Các di tích lịch sử văn hoá
Khe Tù
Khe Tù trước đây là bệnh viện của Pháp và kho gạo dọc bờ sông, đến năm 1943, Pháp bắt đầu cho xây dựng nhà tù. Nhà tù được xây dựng trong khoảng thời gian là 6,7 năm mới hoàn thành. Nhà tù có hầm ngầm để nhốt cộng sản và có cả máy chém.
Có nhiều câu chuyện ở đây mà cho đến ngày nay, mỗi khi kể lại người dân Tiên Yên vẫn không khỏi bùi ngùi, xúc động. Để xây dựng nhà tù lính Pháp đã bắt những người dân đi làm phu hồ. Xây máy chém sát bờ sông, phu hồ làm không tốt thì bọn Pháp bắt ăn cơm trộn muối, khát nước thì cho uống nước xà phòng để nôn ra rồi tiếp tục làm việc. Cuộc sống cua những người phu hồ hết sức cực khổ. Đi phu hồ xây nhà tù mỗi người được 0,4 lạng gạo và 2 lạng khoai một ngày, 12 đồng Đông Dương một tháng nhưng không bao giờ được cầm tiền vì cai chiếm đoạt hết.
Những người tù cộng sản bị nhốt ở đây đều bị đem ra chém đầu. Máy chém treo trên cao sập xuống, dao nặng khoảng 70 - 80kg, sống dao dầy 3cm, chém bất cứ lúc nào không kể ngày đêm. Ròng rọc máy chém kéo bằng dây, khi kéo lên cao rồi thả ra máy chém rơi đầu. Khi chém xong, lính Pháp bắt những người cộng sản tự đêm xác đồng đội của mình cho vào bao quẳng xuống sông. Xác tù nhân không ai dám vớt đem chôn, để nước sông lên xuống cuốn trôi đi vì nếu Pháp bắt được sẽ đem ra chém đầu.
Những năm 1944 - 1945 ở Tiên Yên có rất nhiều quân ô hợp như quân Pháp, Nhật, Tàu, đội quân râu dài, quân mũ rộng vành, đội cướp bóc... trong khi đó lực lượng Việt Minh chỉ có khoảng 30 người. Lúc đó đội quân du kích do trung đội trưởng Trịnh Văn Hoàn chỉ huy. Quân ta đã tổ chức nhiều cuộc giải vây cho những người cộng sản bị nhốt ở Khe Tù nhưng đều bị thất bại và những người tổ chức đều bị đưa lên máy chém.
Từ năm 1947 - 1950 nhiều người cộng sản đã về đây hoạt động như ông Lê Bảy, Khổng Minh, bà Sĩ... đã tổ chức hoạt động bí mật bằng hình thức đánh trả du kích, bắt từng tên lính Pháp trùm bao tải cho lên rừng xử. Tháng 5
năm 1949 ở Khe Tù đã diễn ra trận đánh kho xăng khiến cả vùng ngập chìm trong khói lửa. Người lính nội ứng đánh mìn ấy đã hy sinh thầm lặng không để lại tên tuổi.
Hàng năm vào những ngày thanh minh và cuối năm có nhiều gia đình đến đây, dù không có phần mộ nhưng vẫn thắp nén hương cho những người lính đã nằm xuống vì tổ quốc.Và cũng có nhiều người tìm đến đây với hy vọng tìm thấy thi hài của người thân, của đồng đội vẫn còn nằm lại trên mảnh đất này.
Đồn Cao Tiên Yên đây là nơi diễn ra trận đánh oanh liệt kéo dài 7 ngày 7 đêm của quân dân địa phương phối hợp với quân đệ tứ chiến khu Đông Triều đánh bại bọn thổ phỉ những ngày đầu cách mạng tháng Tám.
Núi Hậu Sơn (xã Tiên Lãng), nơi cắm lá cờ đỏ sao vàng đầu tiên của quân đệ tứ chiến khu Đông Triều.
Đỉnh núi Khe Giao (xã Điền Xá), nơi thành lập chi bộ Đảng cộng sản Tiên Yên đầu tiên.
Núi chị Thư người dân nơi đây đã lấy tên chị Nguyễn Thị Thư hy sinh anh dũng trong trận chống càn ở Cái Đản để đặt tên cho núi.
Gốc đa thôn Tềnh Pò (xã Phong Dụ), nơi diễn ra trận tập kích giết bọn Pháp và thổ phỉ Voòng A Sáng.
Miếu Đại Vương
Miếu Đại Vương thuộc thôn Hà Dong Bắc xã Hải Lạng, cách trung tâm thị trấn khoảng 8km, đến ngã ba xã Hải Lạng, tứ ngã ba rã phải đi huyện Ba Chẽ khoảng 2km thì đến nơi. Từ thị trấn có thể đến di tích bằng ô tô, xe máy.
Miếu Đại Vương được xây dựng vào khoảng cuối thế kỷ XVII, diện tích xây dựng miếu là 241m2, quay hướng Đông Nam, kiến trúc kiểu chữ “Nhất”, tường xây gạch thời Nguyễn, vì kèo bằng gỗ đơn giản, mái lợp ngói âm dương, đắp nổi hình hồ lô ở giữa, hai bên đầu mái cong cách điệu đơn giản.
Miếu gồm ba gian, gian giữa xây bằng bệ xi măng, trên đặt bát hương sứ và ba pho tượng. Miếu thờ Hoàng Cần là một vị tướng tài của triều Trần, đã có
công giúp dân dẹp loạn, lập làng. Để tưởng nhớ công lao của ông, nhân dân đã lập miếu thờ ngay trên mảnh đất này.
Miếu Đại Vương là nơi thể hiện tín nguỡng của bà con nhân dân xã Hải Lạng. Trong các dịp lễ tết, bà con góp tiền làm cỗ, thắp hương để tưởng nhớ công lao của vị thần. Đặc biệt có nhiều hoạt động văn hoá văn nghệ, các trò chơi dân gian diễn ra tại đây. Một năm có 5 ngày lễ: lễ cầu phúc tháng giêng, lễ cầu nước chống hạn 15 tháng 4, lễ cầu nước chống hạn 15 tháng 7, lễ cầu may 15 tháng 10, tạ lễ cuối năm 15 tháng 12.
Tín Tâm miếu
Miếu nằm trên phố Hoà Bình thị trấn Tiên Yên. Đây là ngôi miếu thờ thần hoàng làng do người Hoa để lại. Một số người dân địa phương đã đứng ra trông coi và chăm lo việc thờ tự. Vào những ngày rằm,mùng một hàng tháng mọi người dân quanh vùng đến đây để thắp hương cầu khấn các vị thần phù hộ. Tiền công đức của người dân một phần để hương khói và tu sửa miếu, phần còn lại để giúp đỡ những người nghèo.
Linh Quán tự
Ngôi chùa có từ hơn 150 năm thuộc phố Đông Tiến thị trấn TIên Yên. Ngôi chùa đã qua nhiều lần trùng tu, sửa chữa nhưng vẫn giữ được nguyên cây nóc của ngôi chùa cổ. Bên ngoài có thờ Mẫu và thờ thổ công. Bên trong chùa có ba ban: ban chính thờ Phật, bên phải từ ngoài vào thờ thánh Mẫu, bên trái thờ Hưng Đạo Vuơng. Đặc biệt trong chùa có thờ ảnh Bác Hồ. Chùa do sư thầy đại đức Thích Vân Phong chủ trì và tổ chức cúng lễ vào ngày 30 và 14 hàng tháng.
2.2.3.2 Lễ hội truyền thống
Lễ hội văn hoá thể thao dân tộc Sán Chỉ
Lễ hội được tổ chức vào ngày 14 tháng giêng âm lịch hàng năm, tại xã Đại Dực huyện Tiên Yên. Lễ hội mang đậm nét văn hoá dân tộc, tái hiện kịch bản theo nghi lễ cổ truyền và đảm bảo đúng bản sắc của lễ hội truyền thống.
Phần lễ diễn ra trang trọng với nghi lễ cúng tế của đồng bào dân tộc Sán