Danh Sách Các Loài Thú Ăn Thịt Ở Vqg U Minh Thượng


Hòa thảo 42 loài, họ cói 28 loài, họ Cúc 12 loài, họ đậu 12 loài, họ cafe 7 loài. U Minh Thượng có khu hệ thực vật đa dạng và phong phú bao gồm nhiều loại hiếm và đặc hữu. Năm 2000 Trần Triết đã ghi nhận 226 loài thực vật bậc cao có mạch. Trong số đó có loại bèo tấm nhọn là loại hiếm trong khu vực Đông Nam Á, nhưng trong khu vực VQG UMT thì lại rất phổ biến.

Năm 2003 Viện sinh thái và tài nguyên sinh vật đã kế thừa những thông tin này và bổ sung nâng số lượng thực vật lên 299 loài, 102 họ.

Đợt khảo sát tháng 8/2009 đã bổ sung thêm nâng tổng số loài đã ghi nhận trên toàn khu vực 387 loài thuộc 108 họ, gồm 13 loài đặc hữu và 5 loài quý hiếm.

Đây là khu vực đồng bằng, dải đất ven biển nên độ phong phú cao thuộc những họ thích hợp với hệ sinh thái đồng bằng, đất chua phèn, than bùn, chịu ngập nước như: họ cúc, họ cỏ, họ cói. Nhiều loại rừng ngập mặn như: họ Đước, họ cỏ roi ngựa, chi Mắm.

Trong khu vực chỉ có duy nhất 1 loài được ghi trong SĐVN, 2007, bậc VU sẽ nguy cấp: Côm Cánh Ướt, họ côm, cây phân bố hẹp vùng Đồng Tháp Mười, chịu ngập úng về mùa mưa.

Khu hệ động vật

Những kết quả khảo sát bước đầu đã thống kê được cho thấy hệ động vật ở VQG U Minh Thượng được đánh giá là có tính đa dạng sinh học cao nhất khu vực Đồng Bằng Sông Cửu Long thể hiện như sau:

Nhóm Thú: Qua kết quả nghiên cứu đã ghi nhận được ở VQG U Minh thượng có 32 loài thuộc 13 họ, 7 bộ, 12 loài nằm trong Sách Đỏ Việt Nam và IUCN. Trong đó có 10 loài thú ăn thịt thuộc 4 họ, 4 loài trong số đó được xếp trong sách đỏ Việt nam 2007, 7 loài có trong nghị định 32/2006/ND/CP của chính phủ. Một số loài rất hiếm trong cả nước cũng có ở đây như: Rái cá lông mũi, rái cá vuốt bé, mèo cá, cầy going đốm lớn…


Bảng 2.3: Danh sách các loài thú ăn thịt ở VQG U Minh Thượng


STT

Tên

Bộ ăn thịt thuộc họ

Độ quý hiếm

SĐ 2007

NĐ 32

1

Rái cá vuốt bé

Họ Chồn

VU

IB

2

Rái cá lông mũi

Họ Chồn

EN

IB

3

Cầy vòi hương

Họ Cầy



4

Cầy Giông đốm lớn

Họ Cầy

VU

IIB

5

Cầy giông

Họ Cầy



6

Cầy hương

Họ Cầy



7

Cầy móc cua

Họ Cầy lỏn



8

Cầy lỏn

Họ Cầy lỏn



9

Mèo rừng

Họ mèo


IB

10

Mèo cá

Họ mèo

EN

IB

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 126 trang tài liệu này.

Tiềm năng và hiện trạng phát triển du lịch sinh thái vườn quốc gia U Minh Thượng - tỉnh Kiên Giang - 8

(Theo tạp chí khoa học ĐHQGHN, khoa học tự nhiên và công nghệ 25

(2009) Trg 40-44)


Độ quý hiếm: SĐ 2007, sách đỏ Việt Nam 2007 VU: Sẽ nguy cấp

EN: Nguy cấp

NDD32: danh sách động thực vật rừng quý hiếm ban hành theo nghị định 32/2006/NĐ-CP ngày 30 thang 3 năm 2006 của chính phủ.

IB: nghiêm cấm khai thác, sử dụng vì mục đích thương mại IIB: hạn chế khai thác, sử dụng vì mục đích thương mại

Như vậy ở VQG U Minh Thượng có số thú ăn thịt chiếm 25,6% tổng số loài thú ăn thịt của Việt Nam (10/39), cao nhất trong các VQG và khu bảo tồn thiên nhiên thuộc khu vực Đồng Bằng Sông Cửu Long, nhưng ít hơn nhiều so với các vùng khác trong cả nước ( so với 22 loài ở vùng núi Tà Đùng thuộc Tây Nguyên, 27 loài ở VQG Phong Nha- Kẻ Bàng thuộc miền Trung, 22 loài thuộc khu bảo tồn thiên nhiên Hữu Liên). Tuy nhiên số lượng cá thể của 1 loài thú ở đây lại khá cao so


với các vùng khác, đặc biệt là một số loài quý hiếm như: rái cá vuốt bé, rái cá lông mũi, mèo cá, cầy giông đốm lớn.

Sự phong phú và đa dạng của khu hệ thú tại VQG U Minh Thượng được chứng minh qua bảng dưới đây:

Bảng 2.4: Tài nguyên thú rừng ở một số VQG trong cả nước


TT

Tên VQG

Loài

Họ

Bộ

% số loài toàn quốc

1

VQG UMT

32

13

7

14

2

VQG Ba Vì

43

21

8

19

3

VQG Cát Bà

20

10

5

9

4

VQG Bến En

53

21

10

23

5

VQG Bạch Mã

55

23

9

24

(Theo báo cáo hội thảo du lịch sinh thái bền vững tại Việt Nam)

Nhóm chim

Qua báo cáo đánh giá khu hệ chim VQG U Minh Thượng của Trần Văn Thắng (tháng 5 năm 2011). Tổng số có 152 loài chim thuộc 39 họ đã được ghi nhận quá trình điều tra. Kết hợp với kết quả giám sát khu hệ chim trước đây của Nguyễn Phúc Bảo Hòa và Trần văn Thắng (1999-2003), Buckton et al (1999), saford (1997), có thêm 20 loài chim. Tổng cộng thành phần loài chim ở VQG U Minh Thượng tính đến thời điểm này lên đến 172 loài thuộc 42 họ. Trong đó 152 loài chim được ghi nhận trong đợt khảo sát trên có 2 loài chim (Bói cá nhỏ Ceryle rudis và Cốc đế Phalacrocorax carbo) được ghi nhận bổ sung cho khu hê chim VQG U Minh Thượng. Hai loại chim Sả rừng và Diều mào do safford ghi nhận năm 1996-1997 cũng được ghi nhận trong đợt khảo sát này mà không được ghi nhận trong các đợt khảo sát và giám sát khu hệ chim trước đây.

Trong 172 loài chim ghi nhận tại VQG U Minh Thượng, 19 loài được xem là có giá trị quan trọng trong bảo tồn. Trong 19 loài này, 9 loài nằm trong danh sách đang hoặc sắp bị đe dọa tuyệt chủng trên toàn cầu do IUCN đề cử, trong đó 3 loài thuộc cấp đánh giá “sắp nguy cấp”, 7 loài đánh giá “ sắp bị đe dọa”. Sáu loài nằm trong sách đỏ Việt Nam(2007) đều với mức độ đe dọa bậc R. Bảy loài có số lượng cá thể trong quần thể vượt quá ngưỡng 1% so với quần thể của chúng trong vùng


Đông Nam Á và trên Thế Giới. Quần thể vùng Đông Nam Á và thế giới dựa trên con số ước tính của Wetlands international (2000).

Bảng 2.5: Những loài chim quan trọng trong bảo tồn tại VQG UMT


STT

Tên Việt Nam

Sách đỏ UICN 2000

Sách đỏ Việt Nam

2007

1

Choắt mỏ thẳng đuôi đen

Near-threatened


2

Diều cá đầu xám

Near-threatened


3

Đại bàng đen

Vulnerable


4

Cổ rắn

Near-threatened


5

Diệc lửa



6

Cò ngàng lớn



7

Cò ngàng nhỏ



8

Cò ruồi



9

Cò hương



10

Quắm đen



11

Cò quắm đầu đen

Near-threatened


12

Bồ nông chân xám

Vulnerable

R

13

Cốc đen



14

Cốc đế


R

15

Cò lạo Ấn độ

Near-threatened

R

16

Cò nhạn


R

17

Hạc cổ trắng


R

18

Già đẩy Java

Vulnerable

R

19

Rồng rộc vàng

Near-threatened


(Theo Báo cáo đánh giá khu hệ chim Vườn Quốc Gia U Minh Thượng)




Nhóm bò sát và lưỡng cư

Bảng 2.6: So sánh bò sát giữa VQG U Minh Thượng với các VQG, khu bảo tồn thiên nhiên khác.

Địa điểm

Diện tích (ha)

Bậc phân loại

Số bộ

Số họ

Số loài

Cát tiên

74.219

3

17

79

VQG UMT

21.107

2

11

31

A Lưới (TT Huế)

116.642

2

13

49

Lò xò- Xa mát

18.806

2

15

56

Nguồn: Tạp chí sinh học 24(2A),2000

Qua bảng ta thấy VQG U Minh Thượng có diện tích tương đối nhỏ so với các VQG, khu bảo tồn thiên nhiên khác. Tuy nhiên nhìn chung số loài bò sát ở đây tương đối phong phú về số loài, thể hiện là 31 loài thuộc 11 họ, 2 bộ. Ngoài 31 loài bò sát thì VQG U Minh Thượng có 7 loài lưỡng cư khác, tổng cổng là 38 loài. Trong đó 20 loài đang bị đe dọa diệt vong trong cả nước và trên thế giới. Các loài cần đặc biệt ưu tiên gồm: trăn gấm, rắn hổ chúa, rùa răng, rùa hộp lưng đen, rùa ba giờ và cua đinh.

Nhóm thuỷ sinh

Vườn quốc gia U Minh Thượng là khu rừng ngập nước có hệ động thực vật phong phú, là nơi giao lưu và chuyển tiếp giữa hai khu hệ sinh vật nước mặn và nước ngọt, chứa đầy đủ các yếu tố sinh thái mặn, lợ, ngọt khiến khu hệ sinh vật ở đây trở nên phức tạp.

Tháng 3 năm 2002 xảy ra trận cháy rừng, khu hệ sinh vật biến đổi nhiều, sau một thời gian dài bơm nước mặn chống cháy và giữ ấm cho rừng đã chuyển toàn bộ hệ thống thủy vực nước ngọt của VQG U Minh Thượng sang hệ sinh thái lợ mặn (độ mặn 5-15%). Khu hệ thủy sinh vật biến đổi nhiều, theo xu thế bất định hình bởi sự pha trộn các khu hệ ngọt-lợ-mặn, nghiêng về mặn nhiều hơn. Song tài nguyên thủy sinh vật nói chung và khu hệ động vật nổi nói riêng luôn luôn biến đổi dưới tác


động của khí hậu, chế độ mưa nắng trong năm và tác động của con người, khả năng phục hồi của khu hệ sinh vật, trong đó có thuy sinh vật là một hiện hữu.

Qua hai đợt khảo sát tháng 8 và tháng 11 năm 2004 ở VQG U Minh Thượng, đã xác định được 75 loài động vật nổi, thuộc 6 nhóm: Protozoa, Rotatoria, cladocera, Copepoda,Ostracoda và larvae. Trong đó nhóm có số lượng loài cao nhất là Rotatoria: 29 loaì chiếm 38,7%, tiếp đến là Cladocera với 21 loài chiếm tỷ lệ 28,0%. Các nhóm còn lại như Protozoa, Copepoda, Ostracoda và Larvae có số lượng loài ít hơn, chỉ dao động trong khoảng từ 2-10 loài, đạt tỷ lệ từ 2,7%-13,3%.

Bảng 2.7 : Cấu trúc thành phần loài động vật nổi ở VQG U Minh Thượng



TT


Nhóm loài

Năm 2002

Năm 2004

Số loài

Tỷ lệ

(%)

Số loài

Tỷ lệ

(%)

1

Protozoa( Động vật nguyên sinh)

0

0

2

2.7

2

Rotatoria (Luân trùng)

5

14.3

29

38.7

3

Cladocera ( giáp xác râu ngành)

5

14.3

21

28.0

4

Copepoda (giáp xác chân chèo)

18

51.4

10

13.3

5

Ostracoda (giáp xác có vỏ)

0

0.0

4

5.3

6

Larvae ( Ấu trùng)

7

20.0

9

12.0

Tổng

35

100

75

100

(Theo Báo cáo đánh giá khu hệ động vật nổi Vườn Quốc Gia UMT)

Nhóm côn trùng

Trên cơ sở các Danh pháp dựa theo Bingham (1897) – Bộ Hymenoptera, Distant (1906) – Rhynchota, Pautian (1945) - Bộ Coleoptera, Akinobu (1967) – Bộ Coleoptera, Đặng Thị Đáp (1981) – Bộ Coleoptera, Liyongxi Zhou Zhihong et al. (1990), Shusiro Ito et al. (1993) và Lê Xuân Huệ (2000) - Hymenoptera. Kết quả định danh được như sau:

Tổng cộng 172 loài thuộc 53 Họ, 12 Bộ. Bộ Coleoptera có số họ và loài nhiều nhất (57 loài thuộc 14 họ). Các Bộ lớn tiếp theo là Bộ Heteroptera (39 loài, 10 họ), Bộ Hymenoptera (24 loài, 8 họ), Bộ Diptera (21 loài, 4 họ), Bộ Orthoptera (11


loài, 4 họ), Bộ Mantoidea (6 loài, 2 họ), Bộ Homoptera (6 loài, 5 họ), và Bộ Odonata (5 loài, 2 họ). Ba Bộ Blattoidea, Neuroptera và Dermapter chỉ có 1 loài. Bộ Ephemeroptera có 2 mẫu vật thu được nhưng chưa định danh.

Chỉ có sáu loài sinh vật thủy sinh được định danh, hai loài thuộc Họ Belostomatidae và Dytiscidae, và một loài trong mỗi họ Hydrophilidae và Gerridae.

Bảng 2.8 : Các Bộ Côn Trùng ở VQG UMT cùng với số loài và họ tương ứng


TT

Bộ( tên khoa học và tên VN

Số tiêu bản

định danh

Số họ định

danh được

Số loài định

danh được

1

Orthoptera - Bộ Cánh Thẳng

103

4

11

2

Blattoidea - Bộ Gián

12

1

1

3

Mantoidea - Bộ Bọ Ngựa

15

2

6

4

Neuroptera - Bộ Cánh Gân

12

1

1

5

Homoptera - Bộ Cánh Giống

34

5

6

6

Heteroptera - Bộ Cánh Nửa

105

10

39

7

Coleoptera - Bộ Cánh Cứng

265

14

57

8

Hymenoptera - Bộ Cánh Màng

98

8

24

9

Diptera - Bộ Hai Cánh

72

4

21

10

Odonata - Bộ Chuồn Chuồn

35

2

5

11

Dermaptera - Bộ Cánh Da

3

1

1

12

Ephemeroptera - Bộ Phù Du

2

1

0

Tổng cộng

756

53

172

(Theo Báo cáo Dự án bảo tồn và phát triển khu dự trữ sinh quyển Kiên Giang)

Hai loài côn trùng tại VQG U Minh Thượng được ghi nhận là bị đe dọa theo Sách đỏ Việt Nam (2000):

Loài Mantis religiosa (Bọ ngựa) – Cấp V (Vulnerable_sắp nguy cấp), được tìm thấy ở các trảng cỏ gần trụ sở Ban Quản Lý và Chốt 4, độ phong phú thấp.

Loài Lethocerus indicus (Cà cuống) – Cấp R (Rare_hiếm). Chỉ ghi nhận theo quan sát thấy của người dân địa phương. Cà cuống đặc trưng nơi tuyến hương của nó được sử dụng ưa chuộng trong các món ăn Việt Nam. Cà cuống bị đe dọa do các


ảnh hưởng tìm bắt quá mức; do thuốc trừ sâu và thuốc diệt cỏ; hoặc do cường độ ánh sáng đèn mạnh cũng làm hại cho loài côn trùng này.

Nhóm cá

Khu bảo thiên nhiên U Minh Thượng được thành lập năm 1992 tại tỉnh Kiên Giang, đây là khu hệ đất ngập nước được bao bọc bởi hệ thống đê bao và kênh đào. Nguồn lợi thủy sản ở đây có vai trò rất quan trọng so với các nguồn tài nguyên thiên nhiên khác, đó là nguồn cung cấp đạm và thu nhập cho cộng đồng dân cư trong khu vực.

Kết quả nghiên cứu cho thấy có 66 loài cá trong đó 9 loài cá có giá trị kinh tế được khai thác trong khu bảo tồn thiên nhiên U Minh Thượng là Cá Lóc, Dầy, Sặc Rằn, Rô Đồng, Trê Vàng, Trê Trắng, Thát Lát, Sặc Bướm và Sặc Điệp.

2.2.2.2. Địa hình, địa mạo

- Cấu trúc địa hình nơi đây khá phức tạp, nó phản ánh lịch sử địa chất phức tạp khu vực. Rừng úng phèn U Minh cũng như các khu rừng úng phèn ở ĐBSCL liên quan chặt chẽ với lịch sử thành tạo nên vùng đồng bằng rộng lớn này. Từ hoạt động địa chất tân kiến tạo vào cuối Đại Tân sinh tạo ra hai khối nâng Nam Trung Bộ và Đông Nam Bộ Việt Nam cùng với miền Đông Cam Pu Chia, khối sụt ở giữa với dòng chảy hạ Mê Kông (bao gồm các sông chính Mê Kông - Bassac và hệ thống phụ lưu), bồi lắp với các lớp trầm tích cách đây gần một triệu năm. Tiếp theo các chuyển động tân kiến tạo này là thời kỳ biển tiến vào thềm lục địa, sau đó biển lùi, để lại phần đất mới lộ ra trên những hố trũng như Đồng Tháp Mười, Tứ Giác Long Xuyên và sâu hơn cả là vùng U Minh. Khối lượng phù sa và vật chất trầm tích khổng lồ của lưu vực sông Mê Kông dồn tập trung và thành tạo nên ĐBSCL, đặc biệt do tác động cộng hưởng của dòng hải lưu ở nam biển Đông, phần lớn phù sa này được chuyển tải vòng xuống và hướng về phía tây nam, tạo nên phần đất được gọi là bán đảo Cà Mau (đã hình thành từ hơn mười ngàn năm nay).

Lớp rừng thực sự là nguyên sinh ở U Minh đã bị sụt xuống và sau đó bị vùi lấp, dần dần lại xuất hiện lớp thực vật mới trên tầng trầm tích, cũng có thể gọi là lớp rừng nguyên sinh trên tầng đất thành tạo kế tiếp. Những cánh rừng bị vùi lấp trước

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 21/12/2023