Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Tới Hiệu Quả Kinh Doanh Du Lịch Quốc Tế :


Ta có : x =

5418

3

y =

1350450

3

x

2 = x2 - x2 = 358,67 - 324 = 34,67

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 98 trang tài liệu này.

xy = 8333,33

Như vậy ta có b =

Thực trạng và một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh du lịch quốc tế tại công ty du lịch và tư vấn đầu tư quốc tế - 5


8333,33450x18 6,73

34,67

a = 450 - 6,74 x 18 = 328,85

=> y = 328,85 + 6,73 x

Ta có thể nhận xét rằng nếu tăng 1 đồng chi phí cho quảng cáo thì doanh nghiệp sẽ thu được 6,73 đồng doanh thu.

4. Các nhân tố ảnh hưởng tới hiệu quả kinh doanh du lịch Quốc tế :

Du lịch Quốc tế, xét trên phương diện nào đó giống như hoạt động xuất nhập khẩu hàng hóa quốc tế. do đó du lịch Quốc tế sẽ chịu ảnh hưởng của nhiều nhân tố từ bên trong cũng như từ bên ngoài, liên quan tới luật pháp của nhiều quốc gia khác nhau, nhiều nền văn hóa khác nhau. Sau đây là một vài nhân tố ảnh hưởng tới hiệu quả kinh doanh :

4.1. Các nhân tố bên trong doanh nghiệp :

- Vốn kinh doanh du lịch mang tính thời vụ rất cao, có khi để phục vụ cho một mùa du lịch (thường từ 4 - 5 tháng) doanh nghiệp phải tập trung toàn bộ vốn kinh doanh của mình để đưa vào hoạt động. Chính vì thế nếu doanh nghiệp nào có vốn lớn, sẽ đáp ứng phục vụ cho nhiều khác hơn đủ để trang trải các chi phí cần thiết và ngược lại.

- Nhân lực : Đối với tất cả các hoạt động kinh tế nào, con người đều có vai trò quyết định. Vấn đề nhân sự trong doanh nghiệp không những phải giỏi về trình độ chuyên môn, hiểu biết về xã hội... mà họ còn phải được sắp xếp tổ chức công việc một cách hợp lý, khoa học và được quản lý một cách chắc chắn. Có như vậy họ mới đảm đương được công việc trong nền kinh tế hiện đại. Hiệu quả kinh doanh chủ yếu xuất phát từ tài năng của người lãnh đạo, nếu

người lãnh đạo giỏi thì hiệu quả kinh doanh sẽ cao còn bằng không Công ty khó lòng đạt được kết quả như mong muốn.

- Phương tiện, khoa học công nghệ, các thiết bị khoa học cũng đóng một vai trò quan trọng tạo nên hiệu quả của công việc kinh doanh. Trong thời đại bùng nổ thông tin như hiện nay, thông tin sẽ đưa khách hàng tiếp cận một cách nhanh nhất với Công ty, khách hàng có điều kiện tìm hiểu về Công ty, về thị trường du lịch của Công ty cũng như các loại hình dịch vụ mà Công ty đang phục vụ để từ đó có quyết định đi du lịch với Công ty... Về phần mình, Công ty có thể nắm bắt hơn nữa thông tin về thị trường du lịch quốc tế, để từ đó có những điều chỉnh phương hướng kinh doanh cho phù hợp.

- Một nhân tố bên trong cũng ảnh hưởng không nhỏ tới hoạt động kinh doanh của Công ty đó là kinh nghiệm kinh doanh, mối quan hệ với các bạn hàng, các nhà quản lý... Đây là cơ sở cho sự phát triển lâu dài và bền vững của Công ty, cơ hội cho sự cạnh tranh trên thương trường. Mức độ đem lại hiệu quả kinh doanh đến đâu phụ thuộc rất nhiều vào nhân tố này, bởi lẽ du lịch quốc tế liên quan tới người nước ngoài và vì thế nó chịu sự chi phối của nhiều tổ chức quản lý cả trong nước và ngoài nước. Ví dụ như Tổng cục Hải Quan, Bộ ngoại giao, Phòng quản lý xuất nhập cảnh...

Đối với các nhà quản lý Công ty có kinh nghiệm họ sẽ biết điều tiết các mối quan hệ này, nắm bắy được các xu hướng, quy luật vận động của thị trường du lịch để từ đó họ sẽ đưa Công ty đi những bước đi thích hợp trên con đường phát triển.


4.2. Các nhân tố bên ngoài doanh nghiệp :

- Ảnh hưởng của môi trường luật pháp : Một quốc gia có hệ thống luật pháp chưa hoàn chỉnh, luôn luôn thay đổi thì đối với bất cứ nhà kinh doanh nào, đem lại hiệu quả kinh doanh tốt nhất là điều rất khó khăn. Đối với ngành du lịch, luật về du lịch hay pháp lệnh về du lịch không có hay không hoàn thiện sẽ tạo ra một sự cạnh tranh không lành mạnh giữa các doanh nghiệp kinh doanh du lịch, gây xáo trộn thị trường du lịch. Các hãng sẽ tự do cạnh tranh về giá cả, tự do khai thác nguồn tài nguyên du lịch sao cho đạt được mục tiêu của

mình là thu lợi nhuận cao nhất mà quên đi trách nhiệm của mình trong bảo vệ tài nguyên thiên nhiên.

Như đã trình bày, du lịch quốc tế bị chi phối bởi hệ thống luật pháp của nước đi và đến của du khách. Nói một cách khái quát pháp luật sẽ quy định và cho phép những lĩnh vực, những hình thức, những vùng mà doanh nghiệp được phép hay không được phép khai thác.

Mỗi một quốc gia có hệ thống luật pháp riêng để điều chỉnh hoạt động du lịch quốc tế của mình như Luật thương mại, Luật đầu tư nước ngoài, Luật thuế... Giữa các nước thường ký kết các hiệp định hợp tác du lịch, hiệp định hợp tác trao đổi khách du lịch... Ví dụ Hiệp định hợp tác du lịch được ký giữa Việt Nam và Pháp, Việt Nam và Trung Quốc.. tạo điều kiện cho các doanh nghiệp thuận lợi hơn trong kinh doanh.

Vì vậy có thể khẳng định rằng chỉ khi doanh nghiệp có những hiểu biết về hệ thống luật pháp của từng quốc gia và các hiệp định giữa các nước thì doanh nghiệp mới có những quyết định đúng dắn khi lựa chọn thị trường, khu vực kinh doanh... Ví dụ, một doanh nghiệp Việt Nam chọn thị trường Hoa Kỳ làm nơi kinh doanh du lịch. Về mặt kinh doanh đây là một thị trường rất tiềm năng : ngoài hơn 2 triệu Việt Kiều nơi đây còn tập trung một lượng khách du lịch lớn và giầu có. Nếu xét mặt pháp luật thì thị trường này chưa phải là một thị trường tốt. Việt Nam và Hoa Kỳ chưa ký kết bất kỳ một hiệp định nào về du lịch, Hoa Kỳ không cấp visa du lịch nào cho du khách Việt Nam. Từ đó cho thấy doanh nghiệp đã lựa chọn sai thị trường.

- Ảnh hưởng từ môi trường chính trị :

Môi trường chính trị ảnh hưởng tuy không lớn tới hoạt động du lịch quốc tế như môi trường luật pháp song nó lại tác động trực tiếp tới cung cầu trên thị trường du lịch, tới tổng lượng khách đi và đến của một quốc gia. Khách du lịch quốc tế ngoài lý do thăm quan thắng cảnh văn hóa, thiên nhiên của nước du lịch, họ cùng cần được đảm bảo an toàn về tính mạng.

Sự ổn định về chính trị được thể hiện ở chỗ : thể chế, quan điểm chính trị có được đa số nhân dân đồng tình hay không, Đảng cầm quyền có đủ uy tín lãnh đạo hay không, có xảy ra nội chiến hay đảo chính không...

Trong điều kiện đó, cả du khách lẫn doanh nghiệp phải căn cứ từng điều kiện cụ thể mà có sự lựa chọn kinh doanh hay không kinh doanh tại thị trường đó, quốc gia đó. Khi đó cung cầu tại thị trường này phụ thuộc rất lớn vào sở thích của khách du lịch.

- Ảnh hưởng của môi trường văn hóa - xã hội :

Văn hóa là những giá trị tinh thần của mỗi một dân tộc. Văn hóa xã hội ăn sâu vào tiềm thức của mỗi cộng đồng người, mỗi dân tộc, là đặc trưng của mỗi dân tộc. Nó sẽ hình thành nếp nghĩ và thói quen tiêu dùng của khách du lịch - đây cũng chính là nhân tố tác động lớn tới hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp khi lựa chọn thị trường du lịch.

Đặc trưng của văn hóa du lịch là phong cách kiến trúc, tập quán, lối sống tôn giáo và ngôn ngữ. Khách du lịch văn hóa nhằm mở rộng kiến thức, học hỏi các nét văn hóa, ngôn ngữ của dân tộc đó. Nếu một quốc gia có nền văn hóa độc đáo, có bản sắc riêng thêm vào đó là môi trường tự nhiên phong phú và đa dạng sẽ thu hút rất lớn du khách.

Về phía doanh nghiệp, môi trường văn hóa xã hội trong một chừng mực nhất định sẽ ảnh hưởng tới phong cách làm việc, mô hình quản lý, điều tiết kinh doanh từ đó ảnh hưởng tới mục đích gia tăng lợi nhuận, tăng hiệu quả kinh doanh.

- Ảnh hưởng của nhân tố kinh tế : Tập trung chủ yếu vào khả năng tài chính, thu nhập của khách du lịch, tác động tới chỉ tiêu cho các hàng hóa và dịch vụ của doanh nghiệp. Nếu doanh nghiệp đưa ra hàng hóa và dịch vụ có chất lượng cao (do đó giá cả cũng sẽ không thấp) sẽ đòi hỏi khách hàng phải có khả năng thanh toán mới có thể tiêu dùng được. Nếu như du khách không đảm bảo khả năng tài chính thì khách sẽ không đi du lịch nữa và hiệu quả kinh doanh của Công ty lại trở thành vấn đề đáng quan tâm. Năm 1998 đánh dấu một sự kiện trong du lịch bằng cuộc khủng hoảng tài chính Châu Á, khách du lịch Châu á đi du lịch giảm hẳn và làm cho lượng khách tới các nước Đông Nam Á cũng giảm. Chỉ riêng Việt Nam khách quốc tế giảm 100.000 người so với 1,7 triệu khách năm 1997.

- Ảnh hưởng từ môi trường cạnh tranh của Công ty

Sự khác biệt cơ bản giữa kinh doanh du lịch nội địa và kinh doanh du lịch quốc tế là ở chỗ du lịch quốc tế thường có khoảng cách địa lý xa hơn, phục vụ một lượng khách đa dạng hơn, mang nhiều quốc tịch hơn. Điều đó làm cho các Công ty du lịch quốc tế luôn phải gặp khó khăn hơn do chi phí nhiều hơn cho hoạt động, do phải cạnh tranh với nhiều hãng du lịch lớn. Du lịch vốn là ngành thu lợi nhuận cao, khả năng quay vòng vốn lớn nên cũng có rất nhiều nhà cạnh tranh, vì vậy thị trường của doanh nghiệp cũng giảm đi ảnh hưởng tới kết quả kinh doanh của Công ty. Như vậy ta thấy rằng để đánh giá được khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp trên thị trường, các doanh nghiệp phải nắm bắt được khả năng nội tại của Công ty, những mối đe dọa, những thách thức để Công ty có thể tiến hành những hoạt động thích ứng nhằm chớp thời cơ, tạo cơ hội để đạt kết quả kinh doanh tốt hơn.


CHƯƠNG II

THỰC TRẠNG KINH DOANH DU LỊCH QUỐC TẾ TẠI CÔNG TY DU LỊCH VÀ TƯ VẤN ĐẦU TƯ QUỐC TẾ (TIC).


I.VÀI NÉT KHÁI QUÁT VỀ CÔNG TY TIC.


1. Lịch sử hình thành và phát triển của công ty TIC .

Công ty du lịch công đoàn Việt Nam là một đơn vị mới, chính thức được thành lập vào năm 1989 với mục đích tham gia hoạt động kinh doanh du lịch

Trụ sở cũ của công ty đặt tại tầng 2, 65 phố Quán Sứ, Hà nội nay là công ty đã chuyển trụ sở của mình về 1B phố Yết Kiêu. Tại đây công ty có điều kiện thuận lợi hơn trong công tác giao dịch, tiếp thị cũng như quản lý

Tiền thân của công ty là phòng du lịch của Ban bảo hiểm xã hội thuộc Tổng liên đoàn lao động Việt Nam (được thành lập từ năm 1962) với các chức năng chủ yếu : phục vụ an dưỡng, nghỉ ngơi, tham quan theo chế độ của nhà nước đối với công nhân viên chức nói riêng và người lao động nói chung đặc

biệt là những người có thành tích được công đoàn các nhà máy, xí nghiệp tuyên dương, khen thưởng.

Cho đến những năm 1987-1988 theo xu hướng của phong trào công đoàn quốc tế về du lịch, nghỉ ngơi cho những người lao động, công ty du lịch công đoàn đã tham gia Hiệp hội du lịch các nước xã hội chủ nghĩa mà phần đông là các nước Đông Âu trước đây.

Ngày 7/11/1988 theo Quyết định 2830/HĐBT của Hội đồng bộ trưởng (nay là Thủ Tướng Chính phủ), Tổng liên đoàn lao động Việt Nam được phép thành lập công ty kinh doanh du lịch theo phương thức tự hạch toán kinh tế, kinh doanh có lãi, được mở tài khoản riêng tại ngân hàng được phép gia nhập các tổ chức, hiệp hổi du lịch trong và ngoài nước. Quyết định này được đưa ra theo đề án và thay đổi cơ cấu tổ chức bộ máy để thành lập Công ty du lịch công đoàn

Một năm sau đó, ngày 7/11/1989 sau khi hoàn tất các thủ tục, hồ sơ hoàn thiện cơ cấu tổ chức, nhận được Quyết định 508/QĐ-TLĐ, Công ty du lịch công đoàn Việt Nam chính thức được thành lập, trực thuộc Ban thư ký Tổng liên đoàn lao động Việt Nam

Công ty có các nhiệm vụ và chức năng chủ yếu sau:

- Tổ chức hoạt động quản lý, chỉ đạo thực hiện và hướng dẫn nghiệp vụ kinh doanh du lịch, các dịch vụ du lịch của công đoàn trong phạm vi cả nước, nhằm phục vụ nhu cầu nghỉ ngơi, du lịch của đoàn viên công đoàn, công nhân, viên chức và mọi tầng lớp nhân dân lao động trong cả nước, kiều bào và khách du lịch nước ngoài.

- Hợp tác trao đổi khách du lịch, liên đoàn, liên kết trong việc phát triển du lịch với các tổ chức công đoàn trên thế giới.

- Thống nhất quản lý hệ thống các cơ sở du lịch trực tiếp thuộc Tổng liên đoàn lao động Việt Nam, thực hiện quản lý nhà nước đối với các cơ sở du lịch thuộc Liên đoàn lao động địa phương và các ngành

- Lập dự án đầu tư các cơ sở du lịch của công đoàn, tổ chức thực hiện các dự án đầu tư được phê chuẩn, quản lý sử dụng khi các cơ sở du lịch được phê chuẩn, quản lý sử dụng khi các cơ sở du lịch được hoàn thành và bàn giao đưa và khai thác.

- Trong hoàn cảnh nhà nước xoá bỏ bao cấp với chức năng và nhiệm vụ trên công ty đã phải đương đầu với sự cạnh tranh gay gắt của nền kinh tế thị trường. Tuy nhiên, là đơn vị đầu tiên hoạt động kinh doanh của Tổng liên đoàn lao động Việt Nam, Công ty đã tranh thủ được sự quan tâm to lớn của Ban thư ký Tổng liên đoàn. Cụ thể là:

- Tạo cơ sở ban đầu để Công ty nhanh chóng ổn định, bước vào kinh doanh, giúp Công ty nhanh chóng hoà nhập với doanh nghiệp du lịch trong cả nước

- Bổ nhiệm đồng chí Nguyễn Minh Hoà (lúc đó đang là quyền Viện trưởng Bộ xây dựng) là giám đốc công ty. Nhờ có sự lãnh đạo sáng suất của Ban giám đốc, Công ty đã ổn định kinh doanh và phát triển, từng bước tăng cường khả năng cạnh tranh, đứng vững trên thị trường kinh doanh du lịch

- Sau 8 năm hoạt động, tháng 9/1997, theo Quyết định 3845 QĐUB tên gọi của Công ty đã được đổi thành Công ty du lịch và tư vấn đầu tư quốc tế (International Tourism and Investment Consultancy Company-gọi tắt là TIC) với mục đích mở rộng hoạt động kinh doanh sang lĩnh vực khác như thương mại, bất động sản, quảng cáo, kiều hối, vận chuyển, tư vấn đầu tư...

Vị trí của công ty trong bộ máy tổ chức của Tổng liên đoàn lao động Việt Nam được thể hiện qua sơ đồ sau:

Sơ đồ 1. Mối liên hệ của Công ty với Tổng liên đoàn lao động


Tổng liên đoàn lao động Việt Nam



Ban bảo hiểm xã hội Tổng liên


39


Liên đoàn lao Công ty du lịch

động các địa công đoàn (TIC)


Nhận xét:

Ta nhận thấy rằng Công ty TIC có mối liên hệ mật thiết (theo chiều ngang) với một hệ thống các liên đoàn lao động tỉnh và địa phương khác cũng như hệ thống nhà nghỉ và trung tâm điều dưỡng tại các tỉnh đó. Đồng thời công ty chịu sự chỉ đạo sát sao từ phía Tổng liên đoàn lao động Việt Nam. Điều này sẽ giúp công ty định hướng được hoạt động kinh doanh của mình cũng như tiếp nhận đưa đón khách du lịch, phục vụ khách thông qua hệ thống nhà nghỉ của mình.

Hệ thống các chi nhánh của công ty trong cả nước

Nhận thức được lợi thế là đơn vị kinh doanh du lịch đầu tiên thuộc Tổng liên đoàn lao động Việt Nam. Điều này sẽ giúp công ty định hướng được hoạt động kinh doanh của mình cũng như tiếp nhận đưa đón khách du lịch, phục vụ khách thông qua hệ thống nhà nghỉ của mình.

Hệ thống các chi nhánh của công ty trong cả nước.

Nhận thức được lợi thế là đơn vị kinh doanh du lịch đầu tiên thuộc tổng liên đoàn lao động Việt Nam, Công ty có điều kiện khai thác nguồn khách tương đối ổn định là đoàn viên, người lao động do hệ thống liên đoàn lao động rộng khắp trong cả nước cung cấp.

Khi chuyển sang hoạt động theo cơ chế thị trường, Công ty gặp phải sự cạnh tranh gay gắt trên thị trường du lịch. Tính đến 5/1998 trong cả nước đã có

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 05/09/2022