nền kinh tế trên toàn cầu. Chúng thực hiện phân bố các nguồn lực và quản lý hoạt động sản xuất kinh doanh trên qui mô toàn thế giới. Thông qua hoạt động thương mại và đầu tư của các Tập đoàn kinh tế mà tính phụ thuộc và gắn kết vào nhau của các nền kinh tế trên thế giới được tăng lên. Cùng với sự mở rộng đầu tư ra nước ngoài góp phần gia tăng đầu tư quốc tế thì Tập đoàn kinh tế còn đẩy mạnh buôn bán nội địa làm cho nền kinh tế quốc dân không ngừng tăng trưởng cho nên thúc đẩy thương mại quốc tế phát triển. Như vậy, xây dưng Tập đoàn kinh tế cũng là một biện pháp góp phần thúc đẩy quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, rút ngắn khoảng cách phát triển giữa các nước trên thế giới
II. TÍNH TẤT YẾU HÌNH THÀNH CÁC TẬP ĐOÀN KINH TẾ Ở VIỆT NAM
1. Quá trình hình thành và phát triển Tập đoàn kinh tế trên thế giới
Từ khoảng cuối Thế kỷ 19, sau thời kỳ phát triển mạnh mẽ dưới sự tác động của cuộc cách mạng công nghiệp, các Công ty bắt đầu cần nhiều vốn hơn để mở rộng lĩnh vực và địa bàn kinh doanh, đặc biệt là mở rộng ra thị trường quốc tế. Đến cuối Thế kỷ 20 thì quá trình này bắt đầu diễn ra mạnh mẽ, hàng loạt các Tập đoàn xuyên quốc gia, hoạt động đa lĩnh vực ra đời, tồn tại và phát triển cho đến tận ngày nay.
Toàn cầu hoá nền kinh tế thế giới đã tạo ra làn sóng phát triển mạnh mẽ của các Tập đoàn đa quốc gia khổng lồ. Một số Tập đoàn có vai trò và ảnh hưởng chi phối nền kinh tế không chỉ của một quốc gia mà của toàn thế giới. Tất cả các nhà kinh tế, các chính trị gia đều nhận thấy những tác động tích cực của các Tập đoàn cùng với sự tồn tại và vai trò của chúng đối với nền kinh tế thế giới nói chung và của mỗi quốc gia nói riêng. Và người ta đã có lúc dùng sự phát triển của một vài Tập đoàn để đo sức mạnh kinh tế của mỗi quốc gia.
1.1. Phương thức hình thành Tập đoàn kinh tế
Các Tập đoàn kinh tế trên thế giới được hình thành qua 2 con đường chủ yếu: Con đường phát triển truyền thốngvà hình thành Tập đoàn trên cơ sở một Công ty nhà nước có quy mô rất lớn. Nhìn chung đa số các Tập đoàn kinh tế trên thế giới được hình thành theo qui luật cạnh tranh dẫn đến tập trung,tích tụ sản xuất vào các chủ thể sản xuất kinh doanh .Trong quá trình hoạt động một số doanh nghiệp tích lũy được nguồn vốn lớn và đầu tư mở
rộng qui mô sản xuất kinh doanh .Qua thời gian, đứng trước những biến động của thị trường và áp lực cạnh tranh để tồn tại có sức mạnh cạnh tranh và phát triển các doanh nghiệp có khuynh hướng liên kết, sáp nhập, hợp nhất, mua lại hoặc thôn tính lẫn nhau dẫn đến sự ra đời của các Tập đoàn kinh tế khổng lồ.Tuy nhiên việc thành lập Tập đoàn kinh tế cũng có thể tiến hành bằng các mệnh lệnh hành chính của chính phủ ,điển hình là các Tập đoàn kinh tế ở các nước Đông Á như Nhật Bản, Hàn Quốc… và nước láng giềng Trung Quốc. Như vậy trong quá trình hình thành và phát triển của các Tập đoàn kinh tế chịu sự tác động chủ yếu của các qui luật thị trường song nó cũng chịu ảnh hưởng mãnh mẽ bởi các qui định và chính sách của từng quốc gia.
Có thể bạn quan tâm!
- Thực trạng và giải pháp phát triển tập đoàn kinh tế ở Việt Nam - 1
- Thực trạng và giải pháp phát triển tập đoàn kinh tế ở Việt Nam - 2
- Những Điều Kiện Cơ Bản Hình Thành Và Phát Triển Tập Đoàn Kinh Tế Ở Việt Nam
- Thực Trạng Phát Triển Của Một Số Tập Đoàn Kinh Tế Đã Được Thành Lập Ở Việt Nam
- Thực trạng và giải pháp phát triển tập đoàn kinh tế ở Việt Nam - 6
Xem toàn bộ 96 trang tài liệu này.
1. 2. Nguyên tắc hình thành và phát triển lập Tập đoàn kinh tế
Từ các nghiên cứu cho thấy việc hình thành và phát triển Tập đoàn kinh tế dựa trên nguyên tắc hiệu quả, tự nguyện và theo quy luật thị trường. Các nguyên tắc chủ yếu:
Phù hợp với chính sách và chiến lược phát triển kinh tế của nhà nước. Việc hình thành Tập đoàn kinh tế phải có tác động tích cực tới điều chỉnh cơ cấu sản xuất và cơ cấu sản phẩm. Trước hết cần hình thành các Tập đoàn trọng điểm có khả năng thúc đẩy các ngành sản xuất khác phát triển, tác động tích cực tới việc nghiên cứu và triển khai sản xuất các mặt hàng chất lượng cao đáp ứng nhu cầu thị trường…
Khuyến khích cạnh tranh, hạn chế độc quyền. Đảm bảo cạnh tranh lành mạnh, nghiêm cấm các hoạt động lũng đoạn thị trường hoặc phong toả theo khu vực.
Phân định rõ chức năng quản lý kinh doanh với chức năng quản lý hành chính. Công ty mẹ của Tập đoàn không thể thực hiện cả hai chức năng quản lý kinh doanh và quản lý hành chính. Tập đoàn cần được xác định không phải là cơ quan quản lý nhà nước cũng không phải là hiệp hội ngành nghề mà là một tổ chức kinh tế. Mối quan hệ giữa Công ty mẹ và các doanh nghiệp thành viên được thiết lập trên cơ sở nắm giữ cổ phần hoặc quan hệ kỹ thuật sản xuất, không phải là quan hệ hành chính.
Thực hiện nguyên tắc đầu tư tự nguyện. Việc hình thành Tập đoàn kinh tế phải tuân theo các quy luật kinh tế, không thể lắp ghép bằng mệnh lệnh hành chính, phải tuân theo phương thức tự nguyện đóng
góp cổ phần, tham gia cổ phần của người đầu tư, với sợi dây liên kết giữa các doanh nghiệp chủ yếu là vốn. Như vậy mới đảm bảo các mối quan hệ rõ ràng trong nội bộ Tập đoàn và ổn định cơ cấu tổ chức của Tập đoàn.
Nói cách khác, nguyên tắc hình thành Tập đoàn kinh tế là cùng có lợi, tự do tham gia và rút khỏi Tập đoàn, chống độc quyền trong hoạt động
2. Tính tất yếu của sự hình thành và phát triển Tập đoàn kinh tế ở Việt Nam
Mục tiêu công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và chủ động hội nhập sâu rộng vào kinh tế quốc tế đang được nước ta tích cực thực hiện. Với mục tiêu đó, Việt Nam cần phải nâng cao tốc độ tăng trưởng, mở rộng kinh tế đối ngoại dựa trên việc phát huy những lợi thế so sánh vốn có nhằm tạo ra những bước đột phá về kinh tế để không chỉ tránh việc tụt hậu mà còn đuổi kịp các nước khác trong khu vực và trên thế giới. Trên thực tế, với mục tiêu và định hướng như vậy, việc hình thành và phát triển các Tập đoàn kinh tế mạnh trong một số lĩnh vực mũi nhọn của nền kinh tế là hết sức cần thiết. Sau đây là ba lý do khẳng định việc hình thành các Tập đoàn kinh tế ở Việt Nam là một khẳng định cho sự phát triển của nền kinh tế thị trường có định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam cả về mặt quốc gia lẫn sức mạnh của cộng động doanh nghiệp.
Thứ nhất, Hội nhập và hợp tác quốc tế là một tất yếu khách quan đòi hỏi việc tổ chức, sắp xếp lại các doanh nghiệp nhỏ bé, phân tán thành những doanh nghiệp lớn có khả năng cạnh tranh cũng như đủ mạnh để có thể trở thành đối tác với doanh nghiệp nước ngoài là chủ trương hết sức đúng đắn của Đảng và Nhà nước. Chỉ có những doanh nghiệp có nguồn vốn dồi dào, trình độ quản lý hiện đại, tiềm năng mạnh… thì mới đủ khả năng cạnh tranh với doanh nghiệp nước ngoài. Trong khi doanh nghiệp ở Việt Nam có thể đạt được những điều kiện trên là rất ít, chỉ có các tổng Công ty nhà nước mới có khả năng hội tụ những yếu tố này và các Tập đoàn kinh tế.
Thứ hai, Việt Nam chủ trương xây dựng một nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, tức là chấp nhận tính cạnh tranh như là một tất yếu khách quan. Cạnh tranh giữa các doanh nghiệp dẫn tới quá
trình tích tụ và tập trung vốn vào sản xuất và từ đó dẫn đến hình thành các doanh nghiệp lớn. Hơn nữa, việc hình thành Tập đoàn kinh tế từ những tổng Công ty Nhà nước là một tất yếu cho xu thế phát triển các Tập đoàn kinh tế hiện nay.
Thứ ba, các tổng Công ty Nhà nước phần lớn hoạt động kém hiệu quả hoặc đạt hiệu quả thấp. Phần lớn là do cơ chế hoạt động của hình thức tổng Công ty gây ra (như quản lý bằng mệnh lệnh hành chính, mập mờ trong chế độ sở hữu...). Với việc chuyển từ hình thức tổng Công ty thành Tập đoàn kinh tế sẽ giúp cho các tổng Công ty giảm bớt và loại trừ dần dần những yếu kém đã tồn tại trong một thời gian dài.
Từ ba yếu tố nêu trên có thể khẳng định rằng muốn xây dựng một nền kinh tế thị trường có định hướng xã hội chủ nghĩa mang lại hiệu quả kinh tế cao thì tất yếu phải hình thành nên các Tập đoàn kinh tế mạnh trong các lĩnh vực trọng yếu vì các Tập đoàn kinh tế chính là biểu tượng cho sự phát triển của doanh nghiệp Việt Nam.
CHƯƠNG II
THỰC TRẠNG VÀ XU HƯỚNG PHÁT TRIỂN TẬP ĐOÀN KINH TẾ TẠI VIỆT NAM
I. SỰ RA ĐỜI CỦA CÁC TẬP ĐOÀN KINH TẾ Ở VIỆT NAM
1. Quan điểm và định hướng của chính phủ cho việc hình thành Tập đoàn kinh tế ở Việt Nam
1.1. Quan điểm đường lối của Đảng về phát triển mô hình Tập đoàn kinh tế từ các tổng Công ty
Việc thành lập Tập đoàn kinh tế ở Việt Nam cũng xuất phát từ cơ chế vận hành kém hiệu quả của các tổng Công ty nhà nước và bản thân nó không còn phù hợp với cơ chế thị trường (bởi những yếu kém cần phải được thay đổi như các tổng Công ty này phụ thuộc quá nhiều vào các quyết định hành chính, không rõ ràng trong quan hệ sở hữu, yếu kém trong điều hành doanh nghiệp giữa tổng Công ty và các đơn vị thành viên...). Tập đoàn kinh tế chính là sự thay thế cần thiết để cải thiện những yếu kém của các tổng Công ty nhà nước, thể hiện việc thực hiện chính sách kinh tế - xã hội và là sự biến đổi cơ chế quản lý sản xuất kinh doanh cho phù hợp với tiến bộ công nghệ.
Trong giai đoạn hiện nay, giải pháp đưa một số tổng Công ty lên thành Tập đoàn kinh tế là có tính khả thi cao, bởi những lý do sau:
Khu vực kinh tế tư nhân tuy đã phát triển nhưng nhìn chung khu vực này vẫn còn rời rạc, chưa đầu tư vào những ngành kinh tế mũi nhọn do chưa có tiềm lực mạnh. Ngoài ra, khả năng liên kết trong kinh doanh của các doanh nghiệp trong khu vực này còn rất thấp. Nếu để cho quy luật của kinh tế thị trường quyết định việc hình thành các Tập đoàn kinh tế thì sẽ rất chậm. Hiện nay, khu vực tư nhân đã có một số Tập đoàn như Hòa Phát, Tân Hoàng Minh… nhưng các Tập đoàn này mới chỉ manh mún chưa đủ để trở thành Tập đoàn kinh tế một cách đúng nghĩa trong điều kiện kinh tế thị trường.
Hiện nay, có không ít các tổng Công ty nhà nước có những tích tụ đáng kể về lượng vốn, số lượng lao động có chuyên môn và tay nghề tốt, công nghệ - kỹ thuật, và một số tổng Công ty có mức độ chuyên môn hóa nhất định… đủ để trở thành một Tập đoàn kinh tế với khá nhiều
các đơn vị thành viên hoạt động có hiệu quả.
Hội nghị lần thứ 9 khóa IX, Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam đã nhấn mạnh: Tổng kết thí điểm việc chuyển các tổng Công ty nhà nước sang một số Tập đoàn kinh tế mạnh do tổng Công ty nhà nước làm nòng cốt, có sự tham gia rộng rãi của các thành phần kinh tế trong nước và đầu tư của nước ngoài.Hội nghị đã chỉ ra để hình thành và phát triển các Tập đoàn kinh tế ở Việt Nam, cần phải quán triệt một số quan điểm chủ yếu sau:
Việc hình thành và phát triển các Tập đoàn kinh tế ở nước ta phải gắn liền với sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hóa đất nước, chuyển dịch cơ cấu kinh tế và đổi mới cơ chế quản lý nền kinh tế quốc dân.
Trong điều kiện Việt Nam hiện nay, hình thành và phát triển các Tập đoàn kinh tế cần xuất phát từ nhu cầu nội tại của bản thân các doanh nghiệp bằng con đường kinh tế và theo nguyên tắc tự nguyện.
Vấn đề quản lý vốn cũng cần phải có thay đổi, bằng hình thức Tập đoàn vốn của doanh nghiệp sẽ chuyển thành hình thức đa sở hữu nhằm đan xen sở hữu, phân tán rủi ro trong đầu tư, nâng cao trách nhiệm quản lý và sử dụng vốn của doanh nghiệp. Như vậy hình thức này mang lại nhiều lợi thế trong quản lý vốn, từ đó nó đẩy mạnh quá trình tích tụ và tập trung vốn, nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh của Tập đoàn.
Hình thành và phát triển Tập đoàn kinh tế phải tuân theo mục tiêu hiệu quả kinh tế - xã hội cao hơn, nâng cao năng lực cạnh tranh cho các doanh nghiệp, phát huy được những ưu điểm và khắc phục mặt hạn chế của các tổng Công ty nhà nước.
Hình thành và phát triển Tập đoàn kinh tế phải được tiến hành dần từng bước có chọn lọc, không ồ ạt và phù hợp với tiến trình đổi mới chung của nền kinh tế. Phương hướng chung là xây dựng các tổng Công ty nhà nước đủ mạnh để làm nòng cốt trong những Tập đoàn kinh tế lớn, có năng lực cạnh tranh trên thị trường trong nước và quốc tế như Dầu khí, Điện, Than, Hàng không, Đường sắt, Viễn thông, Hoá chất, Luyện kim...
Các tổng Công ty Nhà nước khi đã trở thành Tập đoàn kinh tế cần được hoàn toàn tự chủ trong sản xuất kinh doanh, xác định chiến lược,
quy hoạch phát triển cũng như các biện pháp thực hiện nhằm đạt được kế hoạch đề ra phù hợp với chiến lược và kế hoạch phát triển của nền kinh tế quốc dân. Nhà nước không can thiệp vào hoạt động sản xuất kinh doanh của Tập đoàn.
Với điều kiện kinh tế - xã hội của Việt Nam hiện nay, để sớm hình thành các Tập đoàn kinh tế, cần lấy tổng Công ty nhà nước làm nòng cốt, trên cơ sở đó thu hút rộng rãi thêm sự tham gia của các thành phần kinh tế trong nước và các nhà đầu tư nước ngoài, mở rộng ngành nghề, lĩnh vực kinh doanh trên cơ sở ngành chuyên môn chính của tổng Công ty. Tuy nhiên, trong thời điểm hiện tại, các tổng Công ty đi lên Tập đoàn là do định hướng của Nhà nước chứ chưa thực sự tuân theo quy luật hình thành Tập đoàn kinh tế của nền kinh tế thị trường. Do đó, sắp tới phải hình thành Tập đoàn kinh tế từ khu vực tư nhân, tạo điều kiện thuận lợi để các Tập đoàn kinh tế phát triển từ khu vực kinh tế tư nhân.
1.2. Một số định hướng cụ thể để phát triển Tập đoàn kinh tế ở Việt Nam
1.2.1. Định hướng về phương thức hình thành Tập đoàn kinh tế
Sự hình thành các Tập đoàn kinh tế chủ yếu dựa trên cơ sở các tổng Công ty hiện nay, đặc biệt là các Công ty 91 hoạt động trong những kĩnh vực có lợi thế so sánh trong nền kinh tế quốc dân. Nguyên nhân của định hướng này là do Tập đoàn kinh tế phải có qui mô lớn trong khi hiện nay các tổng Công ty 91 ở Việt Nam đã có qui mô khá lớn (so với các doanh nghiệp khác trong nước). Trong bản thân mỗi Công ty 91 đã hình thành một hệ thống các đơn vị thành viên, nằm rộng khắc cả nước, có mối quan hệ mật thiết với nhau về dây chuyền công nghệ, qui trình sản xuất như tổng Công ty bưu chính viễn thông, điện lực… Đồng thời, nhiều tổng Công ty còn có mối quan hệ đối tác kinh tế với các hãng trong và ngoài nước.
Mặt khác, theo sự chỉ đạo của nhà nước, trong quá trình cải cách, đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh, trong tổng Công ty đã có nhiều doanh nghiệp thành viên hoặc bộ phận doanh nghiệp thành viên đã thực hiện cổ phần hóa, chuyển đổi sở hữu doanh nghiệp. Đây chính là điều kiện để cho các tổng Công ty có thêm điều kiện chuyển đổi sang mô hình kinh tế mới theo kiểu Công ty mẹ - Công ty con (Parent company and subsidiaries)
Trong phương hướng phát triển kinh tế thị trường theo định hướng xã
hội chủ nghĩa, tham gia hội nhập vào nền kinh tế quốc tế, việc cạnh tranh giữa các doanh nghiệp trong nước với nhau, cạnh tranh giữa các doanh nghiệp trong nước với các doanh nghiệp nước ngoài ngay trên thị trường Việt Nam là một điều tất yếu diễn ra, không thể tránh khỏi. Vì vậy yêu cầu cần phải có một số Tập đoàn kinh tế đủ mạnh, đủ sức cạnh tranh với Tập đoàn kinh tế nước ngoài trên thị trường Việt Nam cũng như thị trường quốc tế là điều kiện hết sức cần thiết nhằm đảm bảo phát triển kinh tế, giữ vững độc lập chủ quyền. Việc nhanh chóng hình thành một số Tập đoàn kinh tế từ tổng Công ty hiện có là điều cần thiết, phù hợp nhất
1.2.2. Định hướng về cơ cấu tổ chức Tập đoàn kinh tế
Về nguyên tắc không có một mô hình thống nhất chung, áp dụng cho tất cả các Tập đoàn. Tùy theo lĩnh vực ngành nghề hoạt động và đặc thù riêng của từng tổng Công ty, tổng Công ty sẽ được tổ chức lại về cơ cấu nội bộ, mối quan hệ liên kết giữa các đơn vị thành viên, cơ cấu ngành nghề của các đơn vị thành viên để hình thành mô hình tổ chức và cơ chế quản lý cho phù hợp. Tuy nhiên định hướng tổ chức lại các tổng Công ty ở Việt Nam hiện nay theo mô hình Tập đoàn kinh tế sẽ dựa trên mô hình Công ty mẹ - Công ty con . Trong cơ cấu Tập đoàn,Công ty mẹ sẽ đầu tư theo nhiều hình thức, nhiều mức độ vào các Công ty con
Công ty mẹ trước mắt là Công ty nhà nước, hoạt động theo luật doanh nghiệp nhà nước do nhà nước đầu tư và nắm giữ 100% vốn. Trong quá trình phát triển, Công ty mẹ cũng có thể chuyển đổi loại hình doanh nghiệp theo dạng Công ty cổ phần, Công ty trách nhiệm hữu hạn…
Tập đoàn sẽ không có bộ máy quản lý điều hành riêng mà sẽ sử dụng bộ máy của Công ty mẹ. Công ty mẹ có thể là đại diện cho Tập đoàn. Bộ máy lãnh đạo, quản lý của Công ty mẹ cũng chính là bộ máy lãnh đạo của Tập đoàn. Công ty mẹ có thể vừa tổ chứcquản lý kinh doanh vốn đầu tư vào các Công ty con, các Công ty ngoài Tập đoàn thông qua Công ty đầu tư tài chính
,vừa trực tiếp tham gia hoạt động sản xuất kinh doanh trong khâu có vị trí chủ chốt trong lĩnh vực ngành nghề hoặc Công ty mẹ có thể chỉ đơn thuần là Công ty đầu tư và kinh doanh vốn thuần túy
Công ty mẹ có thể nắm giữu cổ phần theo tỷ lệ khác nhau đối với mỗi Công ty. Tuy nhiên, đối với những Công ty con có vị trí quan trọng, giữ vị trí