Thực trạng trầm cảm, lo âu, stress và một số yếu tố liên quan ở sinh viên trường Đại học Y dược – ĐHQGHN năm học 2021-2022 - 2

DANH MỤC BIỂU ĐỒ

Biểu đồ 3. 1. Biểu đồ phân bố sinh viên theo giới tính 32

Biểu đồ 3. 2. Biểu đồ phân bố sinh viên theo năm học 32

Biểu đồ 3. 3. Biểu đồ phân bố sinh viên theo nơi sinh 33

Biểu đồ 3. 4. Biểu đồ phân bố sinh viên theo nơi ở hiện tại 34

Biểu đồ 3. 5. Biểu đồ phân bố sinh viên theo cảm nhận tài chính cá nhân 34

Biểu đồ 3. 6. Đặc điểm các mối quan hệ của sinh viên với gia đình, bạn bè, xã hội 36

Biểu đồ 3. 7. Tỷ lệ trầm cảm, lo âu, stress ở sinh viên theo giới tính 39

Biểu đồ 3. 8. Tỷ lệ trầm cảm, lo âu, stress ở sinh viên theo năm học 40

DANH MỤC SƠ ĐỒ

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 106 trang tài liệu này.

Sơ đồ 1. 1. Sơ đồ tổng hợp yếu tố liên quan đến trầm cảm, lo âu, stress của sinh viên Y Dược. 15

Sơ đồ 2. 1. Sơ đồ nghiên cứu 29

Thực trạng trầm cảm, lo âu, stress và một số yếu tố liên quan ở sinh viên trường Đại học Y dược – ĐHQGHN năm học 2021-2022 - 2

ĐẶT VẤN ĐỀ


Hiện nay, rối loạn tâm thần là khá phổ biến, gây ảnh hưởng đến 25% dân số thế giới tại một thời điểm nhất định trong cuộc đời của họ. Các rối loạn tâm thần thường gặp nhất bao gồm trầm cảm, lo âu và stress [1]. Ước tính của Tổ chức y tế thế giới (WHO) năm 2012, trên thế giới có khoảng 350 triệu người chịu ảnh hưởng của trầm cảm [2]. Từ năm 1990 đến năm 2013, số người bị trầm cảm và/hoặc rối loạn lo âu tăng gần 50% từ 416 triệu lên 615 triệu người [3]. Ước tính đến năm 2030, trầm cảm sẽ là nguyên nhân hàng đầu trong gánh nặng bệnh tật toàn cầu [4]. Rối loạn lo âu và trầm cảm có mối liên hệ mật thiết với nhau. Khoảng 85% bệnh nhân trầm cảm có các biểu hiện lo âu [5]. Trên thế giới, tỷ lệ trầm cảm và lo âu lần lượt là 4,4% và 3,6%. Ở Việt Nam, tỷ lệ trầm cảm và lo âu là trên toàn dân số là 4,0% và 2,2% [6].

Với sinh viên, lứa tuổi bắt đầu có những thay đổi điều kiện sống, học tập, thay đổi môi trường giao tiếp, môi trường xã hội, ... kết hợp với đặc điểm tâm lý như bồng bột, thiếu kinh nghiệm thì nguy cơ bị trầm cảm, lo âu và stress ở nhóm đối tượng này lại càng cao hơn [7]. Một nghiên cứu tại Malaysia năm 2013 trên sinh viên các trường công lập cho kết quả khoảng 23,7% sinh viên bị stress vừa và nặng; 63% sinh viên có dấu hiệu của lo âu ở mức độ vừa, nặng và rất nặng; 39,2% sinh viên có dấu hiệu của trầm cảm ở mức độ vừa, nặng và rất nặng [8]. Tại Việt Nam, nghiên cứu của Lê Minh Thuận năm 2011 trên sinh viên Đại học Y Dược Thành phố Hồ Chí Minh cho thấy 77% sinh viên có dấu hiệu của stress, 75% sinh viên có dấu hiệu của lo âu và 75% có dấu hiệu trầm cảm ở các mức độ khác nhau từ nhẹ đến rất nặng [9]. Tình trạng rối loạn sức khỏe tâm thần ở sinh viên đang rất cần được quan tâm, trong số đó phải kể đến sinh viên ngành Y Dược – nhóm đối tượng có nguy cơ cao mắc các rối loạn trầm cảm, lo âu, stress. Năm 2015, tỷ lệ trầm cảm ở sinh viên 8 trường Đại học Y dược Việt Nam là 43,2%, tỷ lệ lệ sinh viên Y dược có ý tưởng tự sát là 8,7%, lên kế hoạch tự sát là 3,9% và thực hiện hành vi tự sát là 0,9% [10].

Sinh viên Trường Đại học Y Dược – Đại học Quốc gia Hà Nội (ĐHQGHN) cũng không nằm ngoài nhóm có nguy cơ biểu hiện trầm cảm, lo âu và stress. Trường Đại học Y Dược - ĐHQGHN là trường y đầu ngành của

khu vực phía Bắc, đảm nhiệm việc tuyển chọn và đảo tạo đội ngũ cán bộ y tế chủ yếu cho xã hội, nên môi trường học tập tại trường Đại học Y Dược - ĐHQGHN rất kỷ luật và nghiêm khắc. Sinh viên Y Dược với khối lượng kiến thức lớn, thời gian học tập dài và các đặc thù của nghề nghiệp như thực hành lâm sàng hay trực tại bệnh viện là một đối tượng cần được đánh giá. Với số lượng không nhỏ các sinh viên ngoại tỉnh học tập tại trường, họ phải đối mặt với môi trường tự lập, phải tự quản lý tài chính, sinh hoạt của bản thân, phải thích nghi với hoàn cảnh sống tập thể. Những yếu tố này có thể gây nên áp lực, ảnh hưởng đến sức khỏe tâm thần và học tập của sinh viên. Các nghiên cứu trên thế giới đã chỉ ra rằng sinh viên Y có tỷ lệ cao các dấu hiệu của trầm cảm, lo âu và stress trong suốt những năm đại học [11], [12], [13]. Các nghiên cứu trước đây chủ yếu tập trung vào hoặc trầm cảm hoặc lo âu như nghiên cứu của Đỗ Đình Quyên năm 2007 về trầm cảm ở sinh viên Y tại trường Đại học Y Dược thành phố Hồ Chí Minh, nghiên cứu của Trần Kim Trang năm 2012 về rối loạn lo âu và trầm cảm trên sinh viên trưởng Đại học Y Dược thành phố Hồ Chí Minh và Nguyễn Thị Huyền Anh năm 2017 trên sinh viên Trường Đại học Y Hà Nội [14], [15], [16]. Gần đây, có nghiên cứu của Nguyễn Thành Trung năm 2017 về trầm cảm, lo âu và stress nhưng thực hiện trên sinh viên YTCC [17]. Trong khi đó, chưa có nhiều các nghiên cứu đánh giá cùng lúc trầm cảm lo âu và stress trên sinh viên y dược trong cùng một thời điểm. Chính vì vậy, em tiến hành nghiên cứu đề tài: “Thực trạng trầm cảm, lo âu, stress và một số yếu tố liên quan ở sinh viên Trường Đại học Y Dược - ĐHQGHN năm học 2021

- 2022" với 2 mục tiêu cụ thể sau:

1. Mô tả thực trạng trầm cảm, lo âu và stress ở sinh viên Trường Đại học Y Dược - ĐHQGHN năm học 2021-2022

2. Mô tả một số yếu tố liên quan đến trầm cảm, lo âu, stress ở sinh viên trường Đại học Y Dược - ĐHQGHN năm học 2021-2022


1.1. Một số khái niệm‌

1.1.1. Khái niệm về trầm cảm

Chương 1 TỔNG QUAN


Trầm cảm là một trạng thái bệnh lý của cảm xúc, biểu hiện bằng quá trinh ức chế toàn bộ hoạt động tâm thần. Chủ yếu là ức chế cảm xúc, ức chế tư duy và ức chế vận động. Theo phân loại bệnh Quốc tế lần thứ 10 (ICD 10), trầm cảm đặc trưng bởi khí sắc trầm, mất quan tâm hay thích thú, giảm năng lượng dẫn đến tăng mệt mỏi và giảm hoạt động, tồn tại trong khoảng thời gian cần thiết ít nhất là 2 tuần [18]. Những triệu chứng khác như giảm sự tập trung, giảm tính tự trọng và lòng tự tin, ý tưởng bị tội và không xứng đáng, nhìn vào tương lai ảm đạm bi quan, ý tưởng và hành vi tự hủy hoại hoặc tự sát cũng là các triệu chứng phổ biến. Ngoài ra còn các triệu chứng cơ thể khác như thức giấc sớm hơm ít nhất 2 giờ, trầm cảm nặng lên vào buổi sáng, sút cân (≥ 5% trọng lượng cơ thể so với tháng trước...)

Tiêu chuẩn chẩn đoán theo ICD - 10 (F32.-):

Lần đầu tiên xuất hiện ở bệnh nhân các triệu chứng lâm sàng đặc trưng, phổ biến và sinh học của trầm cảm.

Giai đoạn trầm cảm kéo dài ít nhất 2 tuần.

Không có đủ các triệu chứng đáp ứng các tiêu chuẩn đối với giai đoạn hưng cảm nhẹ hoặc hưng cảm (F30) ở bất kỳ thời điểm nào trong đời.

Giai đoạn này không gắn với việc sử dụng chất tác động tâm thần (F10 - F19) hoặc bất cứ rối loạn thực tổn nào (F00 – F09).

1.1.2. Khái niệm về lo âu

Năm 1621, tác giả Robert Burton đã mô tả các triệu chứng lo âu ở những người lo lắng về xã hội: “Nỗi sợ là nguyên nhân gây ra một số hiệu ứng đáng phàn nàn ở con người, ví dụ như đỏ mặt, xanh xao, run rẩy, đồ mồ hôi; nó còn làm lạnh và nóng đột ngột khắp cơ thể, đánh trống ngực, ngất xỉu.... [19]. Trước đó, Hippocrates đã mô tả một trong các bệnh nhân của ông, những người dường như đã mắc chứng bệnh mà ngày nay chúng ta gọi là "rối loạn lo âu xã hội":

"Anh ta không dám vào nơi làm việc vì sợ rằng mình bị lạm dụng, bị chán ghét, rằng anh ấy phải luôn vượt qua chính mình từ cử chỉ đến lời nói, hoặc sợ mình sẽ bị bệnh; anh ấy nghĩ rằng tất cả mọi người đang quan sát mình".

Ngày nay, Tổ chức Y tế thế giới đã phân loại rối loạn lo âu nằm trong các rối loạn bệnh tâm căn có liên quan đến stress và dạng cơ thể [18], là sự sợ hãi quá mức, không có nguyên nhân, do chủ quan của người bệnh và không thể giải thích được do một bệnh tâm thần khác hoặc do một bệnh cơ thể. Đây là rối loạn mà bệnh nhân không thể kiểm soát được, biểu hiện vững chắc, mạn tính và có thể xảy ra dưới dạng kịch phát. Các dạng rối loạn lo âu thường gặp bao gồm rối loạn lo âu lan tỏa (GAD), rối loạn lo âu xã hội (SAD) và ám ảnh sự biệt định [20].

1.1.3. Khái niệm về stress

Năm 1914, W. B. Cannon lần đầu tiên đã sử dụng thuật ngữ stress trong các nghiên cứu về y sinh học. Tuy nhiên, người có công lớn trong việc đưa ra khái niệm stress một cách khoa học đó là Hans Selye (nhà sinh lý học người Canada). Ông đã sử dụng thuật ngữ stress để mô tả triệu chứng của quá trình thích nghi với mọi loại bệnh tật (GAG) [21]. Ông đã đưa ra định nghĩa: stress là một phản ứng sinh học không đặc hiệu của cơ thể trước những tình huống căng thẳng. Về sau, trong các nghiên cứu của mình, H. Selye nhấn mạnh: Stress có tính chất tổng hợp chứ không phải chỉ thể hiện trong một trạng thái bệnh lý.

Từ phát hiện của H. Selye, rất nhiều nhà khoa học đã đi sâu nghiên cứu về stress. Nhà tâm lý học Richard Lazarus cho rằng: Stress là trạng thái hay cảm xúc mà chủ thể trải nghiệm khi họ nhận ra rằng các yêu cầu và đòi hỏi từ bên ngoài và bên trong có tính chất đe dọa, có hại, vượt qua nguồn lực cá nhân và xã hội mà họ có thể huy động được [21], [22].

Như vậy, có thể thấy stress từ các góc độ khác nhau sẽ được hiểu dưới những định nghĩa khác nhau. Trong nghiên cứu này, định nghĩa về stress trên khía cạnh tâm lý của Richard Lazarus được chúng tôi sử dụng để định nghĩa tình trạng stress ở sinh viên do định nghĩa này phù hợp với điều kiện, định hướng và thang công cụ đo lường sử dụng trong nghiên cứu.

1.2. Rối loạn trầm cảm – lo âu – stress của sinh viên Y Dược

1.2.1. Đặc điểm, dịch tễ

Hầu hết các vấn đề về sức khỏe tâm thần xuất hiện vào giai đoạn đầu của tuổi trưởng thành, vì những người trẻ tuổi hiếm khi nhận được bất kỳ sự hỗ trợ nào cho sức khỏe tâm thần của họ [23]. Hơn nữa, các vấn đề sức khỏe tâm thần ở nhóm người này có liên quan đến tỷ lệ mắc các vấn đề về thể chất và cảm xúc trong một thời gian vừa hoặc dài hạn, bị gạt ra khỏi thị trường lao động, chất lượng giấc ngủ kém hơn và các mối quan hệ bị rạn nứt. Sinh viên đại học là nhóm đối tượng có nguy cơ bị trầm cảm, lo âu và stress, nó sẽ gây ra căng thẳng về tâm lý và có thể ảnh hưởng đến kết quả học tập của họ. Trên toàn thế giới, người ta ước tính rằng 12% – 50% sinh viên đại học có ít nhất một tiêu chuẩn chẩn đoán cho một hoặc nhiều rối loạn tâm thần [24]. Nguyên nhân của stress trong cuộc sống đại học bao gồm áp lực học tập xuất phát từ các yếu tố như thi cử và khối lượng công việc, thiếu thời gian giải trí, cạnh tranh, lo lắng về việc không đáp ứng được kỳ vọng của cha mẹ, thiết lập các mối quan hệ cá nhân mới và chuyển đến một địa điểm xa lạ; các yếu tố nhân khẩu học như tuổi và giới, cụ thể là nữ; và gánh nặng tài chính.

Trên toàn cầu, các nghiên cứu được thực hiện trên các mẫu sinh viên đại học khác nhau đã xác định được tỷ lệ trầm cảm, lo lắng và căng thẳng từ trung bình đến cao ở nhóm dân số này [25], [23]. Chẩn đoán sớm và kiểm soát các rối loạn tâm lý đem lại kết quả tốt hơn cho bệnh nhân. Vì vậy, cần phải xác định những sinh viên có nguy cơ cao mắc các vấn đề sức khỏe tâm thần trong cuộc sống đại học. Tại Việt Nam, nghiên cứu của Lê Minh Thuận năm 2011 sinh viên cho thấy 77% sinh viên có dấu hiệu của stress, 75% sinh viên có dấu hiệu của lo âu và 75% có dấu hiệu trầm cảm ở các mức độ khác nhau từ nhẹ đến rất nặng [9].

1.2.2. Các yếu tố liên quan

Để đánh giá chính xác yếu tố liên quan đến trầm cảm, lo âu và stress ở sinh viên không phải là vấn đề đơn giản. Trên thực tế, một cá nhân bị stress có thể do nhiều yếu tố khác nhau cùng tích hợp lại. Ví dụ như một sinh viên bị stress, nguyên nhân có thể xuất phát từ việc sinh viên này gặp áp lực trong học

tập. Tuy nhiên, áp lực học tập đã có thể không trở thành yếu tố gây stress nếu như phân bổ thời gian sinh hoạt một cách hợp lý hoặc có được sự chia sẻ, động viên của bạn bè, gia đình. Do đó, việc phân chia các yếu tố liên quan đến trầm cảm, lo âu, stress chỉ mang tính tương đối. Các yếu tố liên quan đến trầm cảm, lo âu và stress của sinh viên có thể chia thành yếu tố cá nhân, môi trường học tập và mối quan hệ xã hội.

1.2.2.1.Yếu tố cá nhân

Tuổi

Những sinh viên có độ tuổi lớn hơn thường có nguy cơ trầm cảm, lo âu và stress cao hơn.

Nghiên cứu của Wafaa Yousif Abdel Wahed và cộng sự (2016) đã tiến hành điều tra trên 442 sinh viên y khoa từ năm nhất đến năm tư của trường đại học Fayoum, Ai cập và cho thấy stress và lo âu ở mức cao có mối liên quan với các yếu tố tuổi. Những sinh viên trên 20 tuổi có mức độ stress và lo âu cao hơn sinh viên dưới 20 tuổi. Ngoài ra, kết quả nghiên cứu cũng cho thấy trầm cảm ở mức cao có liên quan với yếu tố tuổi, mức độ trầm cảm ở những sinh viên trên 20 tuổi cao hơn sinh viên ở lứa tuổi nhỏ hơn [26].

Nghiên cứu của Lu Chen và cộng sự năm 2013 trên trên 5245 sinh viên đại học ở Cáp Nhĩ Tân, Trung Quốc đã cho thấy yếu tố tuổi cá nhân liên quan đến trầm cảm ở sinh viên. Những sinh viên trên 25 tuổi có nguy cơ trầm cảm cao gấp 1,8 lần so với những sinh viên nhỏ hơn 25 tuổi [27].

Nghiên cứu của Khadijah Shamsuddin và cộng sự năm 2013 trên 506 sinh viên tuổi từ 18-24 thuộc 4 trường đại học công lập tại Klang Valley, Malaysia cho thấy mức độ trầm cảm, lo âu và stress ở nhóm sinh viên trên 20 tuổi cao hơn nhóm sinh viên nhỏ tuổi [8].

Năm học

Các nghiên cứu tại Việt Nam đã cho thấy mối quan hệ chặt chẽ giữa năm học và trầm cảm, lo âu và stress ở sinh viên. Nguy cơ stress giảm dần theo từng năm học, trừ năm cuối. Nguy cơ lo âu và trầm cảm tăng dần theo các năm, năm sau cao hơn năm trước.

Xem tất cả 106 trang.

Ngày đăng: 28/09/2024