Thực hiện hợp đồng mua bán hàng hóa theo pháp luật Việt Nam - 13

định chung thời hiệu yêu cầu tòa án tuyên bố hợp đồng vô hiệu như pháp luật hiện hành chưa đảm bảo được quyền lợi của bên bị vi phạm hợp đồng khi hành vi vi phạm là lừa dối, đe dọa. Việc điều chỉnh quy định về vấn đề này giúp pháp luật chặt chẽ hơn, và đặc biệt là bảo vệ được quyền lợi chính đáng của các bên tham gia thực hiện hợp đồng.

Điều chỉnh quy định về cách xác định thiệt hại để yêu cầu bồi thường

Liên quan đến vấn đề xác định thiệt hại để bồi thường, nhằm tránh tình trạng cố tình vi phạm hợp đồng để thu lợi từ việc vi phạm, ví dụ như cố tình chậm trễ trong việc giao hàng nhằm mục đích giảm chi phí để nâng cao lợi nhuận thì pháp luật VN cần có những điều chỉnh triệt để. Theo đó, BLDS và LTM cần bổ sung quy định theo hướng: nếu người vi phạm nghĩa vụ thu lợi từ việc vi phạm thì người bị vi phạm có quyền yêu cầu bồi thường, cùng với những thiệt hại khác, khoản lợi đáng lẽ được hưởng không ít hơn thu nhập nói trên của người vi phạm. Việc quy định như vừa nêu tạo ra một hành lang pháp lý đúng mực để các bên tham gia thực hiện HĐMBHH phải tích cực thực hiện đúng hợp đồng đã giao kết, không có tâm lý tiêu cực khi tham gia quan hệ hợp đồng. Qua đó, pháp luật bảo đảm trật tự kinh doanh thương mại, mua bán hàng hóa cũng như lưu thông dân sự, gián tiếp phát triển nền kinh tế lành mạnh, chủ động.

Bên cạnh đó, pháp luật VN cũng cần có quy định để xác định thiệt hại do uy tín bị giảm sút cũng được coi là khoản lợi đáng lẽ được hưởng và được bồi thường. Quy định này nhằm bảo vệ tối đa quyền lợi của DN, cá nhân làm ăn chân chính, bởi lẽ giá trị của một DN, một cá nhân không chỉ được tạo lập bởi tài sản mà còn được hình thành từ chính uy tín của DN, cá nhân đó. Ngoài ra, pháp luật VN cũng có những quy định liên quan đến bồi thường danh dự, nhân phẩm của người bị xúc phạm điều đó cho thấy các nhà làm luật VN từ xưa đã có để ý và bảo vệ cái được gọi là uy tín, danh dự, nhân phẩm của một con người. Vậy tại sao trong các mua bán hàng hóa, pháp luật lại không đưa vấn đề uy tín này vào để làm căn cứ và bảo vệ khi nó bị xâm phạm? Tuy nhiên, vấn đề đặt ra nữa là nếu xem uy tín bị giảm sút là một căn cứ để yêu cầu bồi thường thiệt hại thì xác định mức độ giảm sút và mức độ

bồi thường thiệt hại được thực hiện như thế nào? Tôi cho rằng có lẽ vì lý do này mà các nhà làm luật chưa đưa quy định liên quan đến uy tín bị giảm sút vào để điều chỉnh bởi lẽ việc xác định uy tín giảm sút ở mức độ nào, từ đó chấp thuận mức bồi thường ra sao là rất khó. Lý do là VN chưa có cơ chế nào để xác định mức độ uy tín, việc xác định uy tín của một người, một DN chưa được pháp luật điều chỉnh. Nhưng nói như vậy không có nghĩa là khó mà không làm được, ở VN chẳng qua vấn đề này chưa được phổ biến. Các nước trên thế giới họ xác định giá trị của một DN dựa trên nhiều yếu tố trong đó có cả uy tín, họ định giá được từng vấn đề của DN đó là vì thực tiễn buộc họ phải thừa nhận những điều đó và giờ đây họ làm rất phổ biến. Vậy VN cũng nên cấp phép và thừa nhận các chứng thư của các tổ chức định giá liên quan đến uy tín DN, từ đó có cơ sở xác định mức độ giảm sút uy tín và đưa ra mức bồi thường hợp lý. Thiết nghĩ rằng, quy định đưa uy tín bị giảm sút vào để xem đó là một căn cứ để bên bị vi phạm yêu cầu bồi thường thiệt hại là quy định cần thiết và tiến bộ, giúp cho các bên tham gia quan hệ hợp đồng phải tôn trọng nhau hơn, cư xử tử tế với nhau hơn, và điều này tốt cho kinh tế, tốt cho xã hội. Để làm được điều đó, pháp luật VN cũng cần có những điều chỉnh rộng hơn liên quan đến cơ chế xác định mức độ thiệt hại từ việc giảm sút uy tín.

Điều chỉnh quy định về phạt vi phạm và bồi thường thiệt hại

Quan điểm của tác giả là hãy coi phạt vi phạm như là hình thức của trách nhiệm do vi phạm nghĩa vụ hợp đồng, không nên hạn chế mức phạt vi phạm, mà chỉ quy định rằng mức phạt vi phạm do các bên thỏa thuận khi ký kết hợp đồng. Mức phạt này có thể được Tòa án điều chỉnh theo yêu cầu của các bên khi chứng minh thiệt hại thực tế thấp hơn hoặc cao hơn so với mức phạt vi phạm mà các bên thỏa thuận. Quy định như vậy mới đáp ứng được yêu cầu của hoạt động mua bán hàng hóa, là một biện pháp bù đắp cho những tổn thất mà bên bị vi phạm phải gánh chịu nhưng vẫn có thể điều chỉnh nếu mức phạt quá cao hoặc quá thấp so với thiệt hại thực tế nếu chứng minh được. Điều này vừa hiệu quả cho việc khắc phục thiệt hại, vừa chặt chẽ tránh những thỏa thuận vô lý, trục lợi của các bên liên quan đến phạt vi phạm.

Hiện nay có các quan điểm khác nhau về việc áp dụng một trong các biện pháp bồi thường thiệt hại hoặc phạt vi phạm, ý kiến khác thì nên áp dụng cả hai biện pháp. Tác giả ủng hộ phương án chấp thuận áp dụng cả phạt vi phạm và bồi thường thiệt hại như LTM quy định. Tuy nhiên, cần điều chỉnh về việc thỏa thuận phạt vi phạm cũng như vấn đề xác định mức phạt vi phạm như đã phân tích trên thì mới đảm bảo cho việc áp dụng pháp luật hiệu quả trên thực tế.

3.2.2. Tham gia điều ước quốc tế về hợp đồng mua bán hàng hóa

Việt Nam đang trên con đường hội nhập một cách chủ động và tích cực vào nền kinh tế thế giới, đẩy mạnh các hoạt động thương mại quốc tế, trong đó thương mại hàng hóa vẫn là hoạt động sôi động nhất là động lực và từ lâu đã đóng vai trò quan trọng cho tăng trưởng kinh tế trong nước, nhất là sau khi VN gia nhập tổ chức thương mại quốc tế WTO. Việc mở rộng ngoại thương không chỉ mang đến nguồn lợi nhuận to lớn cho các DN mà còn giúp phát triển nền kinh tế mới nổi của VN. Với tính chất phức tạp của một giao dịch hàng hóa quốc tế, HĐMBHHQT phải được soạn thảo một cách chặt chẽ và đầy đủ nhằm tránh những tranh chấp và thiệt hại phát sinh từ hoạt động mua bán hàng hóa quốc tế. Các bên trong giao dịch buôn bán hàng hóa quốc tế có thể tự do lựa chọn luật áp dụng cho hợp đồng. Các DN VN có thể lựa chọn luật của VN hoặc các luật nước ngoài, điều ước quốc tế khác. Điều ước quốc tế phổ biến nhất hiện nay được áp dụng cho HĐMBHHQT là Công ước Viên 1980 (CISG). Trong quá trình xây dựng luật VN, các nhà làm luật đã tham khảo Công ước Viên, do đó nhìn chung luật VN và CISG có tương đồng về những quy định cơ bản. Tuy nhiên, trong CISG có phần quy định chặt chẽ và cụ thể hơn so với luật của VN.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 117 trang tài liệu này.

Theo quy định của pháp luật VN ở Điều 1 khoản 1 và Điều 4 khoản 1 LTM 2005, các hoạt động thương mại trên lãnh thổ VN phải tuân theo LTM và các nguồn luật có liên quan. Nếu trong HĐMBHHQT có dẫn chiếu đến luật VN thì khi xảy ra tranh chấp, các bên sẽ phải sử dụng luật chuyên ngành trước, nếu không có luật chuyên ngành thì sẽ áp dụng LTM 2005. Trong trường hợp LTM 2005 không có quy định thì sẽ áp dụng các quy định trong BLDS [khoản 3 Điều 4]. Hiện tại VN

chưa có luật chuyên ngành về mua bán hàng hóa quốc tế, do đó các quy định về HĐMBHHQT đều đa phần được dẫn chiếu đến LTM 2005. Tuy nhiên, LTM 2005 lại chủ yếu hướng đến việc mua bán hàng hóa nội địa. Do đó, một số quy định trong đó chưa thật sự phù hợp với sự phức tạp của HĐMBHHQT. Chính vì vậy, thiết nghĩ, VN nên tham gia các điều ước quốc tế về HĐMBHH mà điển hình là gia nhập Công ước Viên 1980 để mang lại các lợi ích sau:

Thực hiện hợp đồng mua bán hàng hóa theo pháp luật Việt Nam - 13

Thứ nhất, việc gia nhập Công ước Viên 1980 sẽ giúp thống nhất pháp luật về mua bán hàng hóa quốc tế của VN với nhiều quốc gia trên thế giới làm tăng cường các HĐMBHH giữa VN và các bên đối tác. Công ước Viên 1980 đã thống nhất hoá được nhiều mâu thuẫn giữa các hệ thống pháp luật khác nhau trên thế giới, đóng vai trò quan trọng trong việc giải quyết các xung đột pháp luật trong thương mại quốc tế và thúc đẩy thương mại quốc tế phát triển. Vì vậy, khi VN gia nhập Công ước Viên 1980, VN cũng sẽ được hưởng những lợi ích do tính thống nhất cho các bên mà văn bản luật này mang lại.

Hầu hết các quốc gia đứng đầu về thương mại trên thế giới đều đã gia nhập Công ước Viên 1980, trong đó có rất nhiều quốc gia là bạn hàng lớn và lâu dài của VN như các nước khối EU, Hoa Kỳ, Canada, Australia, Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, Singapore… Các phía DN nước ngoài sẽ yên tâm hơn về nguồn luật áp dụng đối với các HĐMBHH ký với các đối tác VN sau khi VN gia nhập Công ước Viên 1980 tạo điều kiện thuận lợi cho mua bán hàng hóa quốc tế của Việt Nam ngày càng phát triển.

Thứ hai, tạo điều kiện cho các DN trong nước có cơ hội cạnh tranh công bằng trên thị trường quốc tế. Nếu các bên làm hợp đồng trên một cơ sở luật chung thì sẽ dễ dàng đánh giá các lựa chọn, chào giá khác nhau trên thị trường về rủi ro, độ chặt và nghĩa vụ trong hợp đồng. Điều này làm tăng khả năng cạnh tranh của các DN trong nước, mang lại lợi ích về mặt kinh tế không nhỏ.

Thứ ba, tăng cường hoạt động trao đổi hàng hóa giữa VN và các quốc gia trên thế giới. Với tính chất là một văn bản thống nhất luật, Công ước Viên đã thống nhất hoá được nhiều mâu thuẫn giữa các hệ thống pháp luật khác nhau trên thế giới,

đóng vai trò quan trọng trong việc giải quyết các xung đột pháp luật trong thương mại quốc tế và thúc đẩy thương mại quốc tế phát triển.

Trong quá trình tiến hành trao đổi hàng hóa với các đối tác nước ngoài, việc áp dụng các văn bản luật quốc gia sẽ gây nhiều khó khăn, bất lợi, làm phát sinh những xung đột pháp luật với các nước khác và khi giải quyết tranh chấp cũng khó khăn. Khi gia nhập Công ước Viên, VN sẽ thống nhất nguồn luật áp dụng trong mua bán hàng hóa quốc tế với các nước đối tác khi ký kết HĐMBHHQT. Khi đó, các thương nhân VN và thương nhân nước ngoài sẽ cùng chung tiếng nói, cùng chung một cơ sở pháp lý và các mối quan hệ mua bán hàng hóa sẽ gắn chặt hơn, lâu bền hơn và rộng mở hơn nữa, tránh được các tranh chấp phát sinh.

Thứ tư, việc gia nhập Công ước Viên 1980 giúp hoàn thiện pháp luật về mua bán hàng hóa quốc tế nói riêng và pháp luật về mua bán hàng hóa nói chung của VN về luật áp dụng cho hợp đồng, quyền lợi và nghĩa vụ của các bên, trách nhiệm khi vi phạm hợp đồng. Khi VN gia nhập Công ước Viên 1980 thì các điều khoản của Công ước này sẽ trở thành các quy phạm của pháp luật VN áp dụng cho các giao dịch mua bán hàng hóa quốc tế có liên quan. Đây là điều kiện tiền đề cho VN hoàn thiện các nội dung luật chi phối việc mua bán hàng hóa quốc tế của mình.

Tại Việt Nam, trong quá trình soạn thảo LTM 2005, các nhà làm luật đã tham khảo các điều khoản của Công ước Viên 1980 để từ đó soạn thảo ra luật của VN. Điều này góp phần chứng minh rằng khi VN gia nhập Công ước Viên 1980, sự ảnh hưởng của Công ước đến việc hoàn thiện pháp luật về mua bán hàng hóa quốc tế của Việt Nam sẽ càng rõ nét và thuận lợi hơn nữa.

Thứ năm, gia nhập Công ước Viên 1980 cũng sẽ là điều kiện để việc giải quyết tranh chấp, nếu có, từ các HĐMBHHQT thuận lợi hơn. Khi VN là thành viên Công ước Viên 1980, việc giải quyết tranh chấp phát sinh từ hoặc có liên quan đến nhiều HĐMBHHQT bởi Tòa án hoặc trọng tài tại VN sẽ trở nên thống nhất và dễ dàng hơn, bởi với Công ước Viên 1980 nguồn luật được giải thích và áp dụng thống nhất hơn.

Ngoài những lợi ích trên, việc VN tham gia Công ước Viên cũng sẽ có ý nghĩa lớn về mặt chính trị và ngoại giao, vì CISG, vốn được xây dựng trên cơ sở hài hòa hóa lợi ích của các nước XHCN và các nước tư bản, các nước phương Đông và phương Tây, các nước đã phát triển và các nước đang phát triển, được đánh giá là một Công ước rất thành công và có ảnh hưởng bao trùm trong lĩnh vực mua bán hàng hóa quốc tế. Với mục tiêu phấn đấu trở thành đầu tàu của khối ASEAN trong việc là cầu nối phát triển quan hệ ASEAN với các nước, tổ chức chính phủ khác trên thế giới, việc VN tham gia Công ước Viên sẽ đánh dấu vai trò to lớn hơn nữa của VN trong việc thúc đẩy phát triển quan hệ quốc tế nói chung.

3.3. Giải pháp nâng cao hiệu quả của việc ký kết và thực thi hợp đồng mua bán hàng hóa

Thành lập Ban nghiên cứu và rà soát về pháp luật hợp đồng. Trong thời gian qua, theo truyền thống làm luật của VN thì mỗi khi muốn ban hành một đạo luật nào thì sẽ thành lập một Ban soạn thảo luật. Thành viên của Ban này chủ yếu gồm các Thủ trưởng cơ quan chuyên môn của Nhà nước gồm Bộ, Sở ban ngành liên quan, Tòa án. Sau khi đạo luật được ban hành thì Ban soạn thảo này được giải tán, các vấn đề liên quan được giao cho một Bộ (thông thường là Bộ Tư pháp) có trách nhiệm quản lý, triển khai giải thích. Như vậy Ban soạn thảo này chỉ làm việc trong một khoảng thời gian nhất định, các thành viên trong ban soạn thảo mặc dù là người được đánh giá là có trình độ thuộc lĩnh vực liên quan nhưng thông thường có rất ít thời gian nghiên cứu về các vấn đề của đạo luật đó nên dự thảo ban hành ra nhiều khi chưa đảm bảo yêu cầu. Trong quá trình xem xét để thông qua Dự thảo Luật tại Quốc hội, do Quốc hội nước ta chưa có nhiều, thậm chí con số rất khiêm tốn các đại biểu chuyên trách về từng lĩnh vực ngành nghề nên công tác rà soát, đánh giá, kiến nghị đối với dự thảo Luật chưa thực sự hiệu quả. Và hệ quả tất yếu là một đạo luật ra đời trên cơ sở soạn thảo chưa đáp ứng nhu cầu của xã hội dẫn đến khi áp dụng gặp nhiều trắc trở. Đó là còn chưa kể đến việc mỗi ban soạn thảo luật khác nhau lại có quan điểm và cái tôi làm luật khác nhau dẫn đến quy định chồng chéo thường xảy ra trong pháp luật VN.

Để khắc phục tình trạng trên, thiết nghĩ chúng ta cần tập trung phát triển hơn nữa đội ngũ các nhà làm luật chuyên nghiệp, chuyên dành thời gian nghiên cứu và tạo ra môi trường nghiên cứu lập pháp đáp ứng các nhu cầu của xã hội bằng cách thành lập Trung tâm nghiên cứu và phát triển pháp luật độc lập thuộc Quốc hội, độc lập với các Bộ. Trung tâm này cần có các thành viên là chuyên gia pháp lý cơ hữu và các chuyên gia được mời hợp tác nghiên cứu từ bên ngoài (có thể là trong nước hoặc quốc tế tùy từng yêu cầu nghiên cứu) nhằm loại bỏ những chồng chéo, mâu thuẫn giữa các quy định của LTM năm 2005 và BLDS năm 2005.

Bên cạnh đó cần tăng số Đại biểu Quốc hội chuyên trách tập trung cho công tác lập pháp. Bởi lẽ, cơ quan lập pháp có vai trò vô cùng quan trọng trong việc xây dựng những vấn đề pháp lý mang tính bắt buộc chung. Họ phải nghiên cứu, đánh giá và có trách nhiệm với sản phẩm do mình làm ra. Có như vậy mới hy vọng tương lai có những điều chỉnh phù hợp, kịp thời của toàn hệ thống pháp luật nói chung và pháp luật về hoạt động mua bán hàng hóa nói riêng.

Có cơ chế hỗ trợ thông tin từ cơ quan quản lý nhà nước về chuyên môn cho DN trong ký kết và thực hiện HĐMBHH.

DN là các chủ thể của HĐMBHH, do đó các DN có đầy đủ các quyền và nghĩa vụ pháp lý trước pháp luật trong lĩnh vực mua bán hàng hóa. Một trong các nghĩa vụ pháp lý quan trọng đó là DN phải chấp hành, tuân thủ đầy đủ các yêu cầu của pháp luật về HĐMBHH và được áp dụng, sử dụng pháp luật trong hoạt động mua bán hàng hóa của mình. Tuy nhiên, việc thực hiện pháp luật trong HĐMBHH của DN VN còn nhiều bất cập. Nhận thức, hiểu biết pháp luật về HĐMBHH của một bộ phận người quản lý DN còn hạn chế. Tình trạng DN không chú ý tới việc tìm hiểu và thực hiện pháp luật còn khá phổ biến. Nhiều DN chưa có thói quen sử dụng tư vấn pháp luật để áp dụng, thi hành pháp luật và phòng, chống rủi ro pháp lý trong hoạt động mua bán hàng hóa. Nguyên nhân chính của tình trạng này là ý thức pháp luật, văn hóa pháp lý của đại bộ phận chủ sở hữu, các bộ phận quản lý DN VN còn hạn chế. Trong tổ chức thi hành pháp luật, chưa có cơ chế, biện pháp để hỗ trợ DN

một cách hiệu quả. Do đó, việc nghiên cứu, xác định cơ chế hỗ trợ DN thực hiện pháp luật về HĐMBHH hiệu quả.

Từ đó nhận thấy Nhà nước ta cần xây dựng một hệ thống thông tin giữa cơ quan quản lý Nhà nước và các DN. Các cơ quan chuyên môn như Sở Công thương, quản lý thị trường... nên có trách nhiệm tư vấn cho các DN các thông tin cần thiết khi DN yêu cầu để họ nắm rõ về HĐMBHH mà họ đang tiến hành ký kết và thực hiện.

Xem tất cả 117 trang.

Ngày đăng: 27/11/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí