Nội Dung Chính Sách Bảo Tồn Và Phát Huy Các Giá Trị Văn Hóa Phi Vật Thể

Chính sách văn hóa có các công cụ khác nhau, gồm: Luật pháp và các phương pháp hành chính; ngân sách và hệ thống thuế, trong đó các bộ luật, luật, văn bản pháp quy; cách thức đầu tư từ ngân sách, hệ thống thuế là công cụ quan trọng nhất để điều hành sự phát triển văn hóa.

Các chính sách văn hóa đều là các thực hành nhà nước dựa trên các nguồn lực về tài chính, vật lực và nhân lực, trong những điều kiện có thể có của thời điểm. Các tổ chức văn hóa dựa vào các nguồn lực này mà triển khai các hoạt động thực thi chính sách.

Trong những hoàn cảnh của Việt Nam, khái niệm chính sách văn hóa đã được xác định dựa trên các quan niệm về văn hóa, về vai trò của văn hóa trong phát triển đất nước, xây dựng con người mới của chế độ mới. Trong bối cảnh nước ta, văn hóa được coi là một lĩnh vực của công tác tư tưởng, văn hóa là một mặt trận, bên cạnh các chức năng đặc thù khác về mặt thẩm mỹ, giải trí, tái tạo sáng tạo.

Từ đặc điểm này, có thể định nghĩa về chính sách văn hóa: “Chính sách văn hóa là một hệ thống các nguyên tắc, các thực hành của nhà nước trong lĩnh vực văn hóa nhằm phát triển và quản lý thực tiễn của đời sống văn hóa theo những quan điểm phát triển và cách thức quản lý riêng, đáp ứng nhu cầu phát triển đời sống văn hóa tinh thần của nhân dân trên cơ sở vận dụng các điều kiện vật chất và tinh thần sẵn có của xã hội”.

1.1.4. Khái niệm di sản văn hóa phi vật thể

1.1.4.1. Khái niệm văn hóa

Văn hóa là một từ có nhiều cách hiểu, từ xưa đến nay, không chỉ ở nghĩa từ nguyên mà cho đến khi được các học giả định nghĩa. Tác giả Phan Ngọc nhận định, hiện nay có không dưới 400 định nghĩa về văn hóa [Phan Ngọc (2019), Bản sắc văn hóa Việt Nam, Nxb Văn học, Hà Nội, tr. 24]. Điều này chứng minh vai trò to lớn của văn hóa cũng như sự quan tâm của nhiều tổ chức, nhiều người về vấn đề gọi tên là văn hóa. Mỗi định nghĩa thể hiện quan điểm riêng của học giả về văn hóa.

Theo tác giả Taylor định nghĩa: “Văn hóa, hay văn minh, theo nghĩa rộng về tộc người học, nói chung gồm có tri thức, tín ngưỡng, nghệ thuật, đạo đức, luật

pháp, tập quán và một số năng lực và thói quen khác được con người chiếm lĩnh với tư cách một thành viên của xã hội”[16, tr. 13].

Trong “Thập kỷ thế giới vì sự phát triển văn hóa”, ông Phederico Mayor Laragoza nguyên Tổng giám đốc UNESCO đưa ra khái niệm: “Văn hóa là tổng thể sống động các hoạt động sáng tạo trong quá khứ và trong hiện tại. Qua các thế kỷ hoạt động sáng tạo ấy đã hình thành nên một hệ thống các giá trị, các truyền thống và các thị hiếu - những yếu tố xác định đặc tính riêng của mỗi dân tộc”.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 85 trang tài liệu này.

Định nghĩa này rất phù hợp với quan điểm của Hồ Chí Minh nêu ra cách đó trên 40 năm: “Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích cuộc sống, loài người mới sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật, những công cụ cho sinh hoạt hàng ngày về ăn, mặc, ở và các phương thức sử dụng. Toàn bộ những sáng tạo và phát minh đó, tức là văn hóa. Văn hóa là sự tổng hợp của mọi phương thức sinh hoạt cùng với biểu hiện của nó mà loài người đã sản sinh ra nhằm thích ứng với nhu cầu đời sống và đòi hỏi của sự sinh tồn”. [ Nhật ký trong tù - HCM]

Trong cuốn “Tìm về bản sắc văn hóa Việt Nam”, Trần Ngọc Thêm cho rằng: Văn hoá là hệ thống các giá trị vật chất và tinh thần được sáng tạo, tích luỹ trong lịch sử nhờ quá trình hoạt động thực tiễn của con người. Các giá trị này được cộng đồng chấp nhận, vận hành trong đời sống xã hội và truyền lại cho thế hệ sau. Văn hoá thể hiện trình độ phát triển và những đặc tính riêng của mỗi dân tộc. Từ đó Trần Ngọc Thêm đưa ra định nghĩa như sau: “Văn hóa là một hệ thống hữu cơ các giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo và tích lũy qua quá trình hoạt động thực tiễn, trong sự tương tác với môi trường tự nhiên và xã hội” [ 7 ].

Thực hiện chính sách bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa phi vật thể trên địa bàn huyện Krông Pắc, tỉnh Đắk Lắk - 4

Từ những quan niệm về văn hóa, chúng ta thấy văn hóa có mặt trong toàn bộ đời sống của xã hội loài người. Mọi sự sáng tạo có giá trị của con người đều là văn hóa. Tuy nhiên cũng cần phải khu biệt khái niệm để công việc nghiên cứu văn hóa tránh sự trùng lặp với nhiều ngành khoa học khác. Văn hóa, theo cách hiểu thông thường nhất, chính là bộ mặt tinh thần và vật chất của xã hội. Văn hóa làm nên diện mạo của dân tộc này so với dân tộc khác. Văn hóa phản ánh mọi mặt đời sống của một dân tộc.

Có thể nói, những quan niệm về văn hoá vừa rất linh hoạt vừa có nhiều nghĩa, nên khó có thể có được một định nghĩa cụ thể mà bao hàm đầy đủ ý nghĩa của nó. Hơn thế nữa, văn hoá là kết quả của quá trình lao động và hoạt động xã hội của con người, nên đề cập đến vấn đề này, các nhà lãnh đạo Đảng và nhà nước ta đã khẳng định: “văn hoá sản sinh ra trong quá trình con người tác động vào tự nhiên và tiến hành đấu tranh xã hội”.

Từ những khái niệm đó, theo chúng tôi, văn hoá dùng để chỉ sự phản ánh tổng thể những năng lực bản chất của con người trong tất cả các dạng hoạt động, là tổng thể các hệ thống giá trị (cả giá trị vật chất lẫn giá trị tinh thần) do con người sáng tạo ra trong quá trình hoạt động thực tiễn lịch sử xã hội của mình.

1.1.4.2. Văn hoá phi vật thể

Văn hóa như một hệ thống thường được chia làm hai dạng: văn hóa vật chất và văn hóa tinh thần. Hoặc văn hóa vật thể và VHPVT. VHPVT bao gồm toàn bộ những sản phẩm do hoạt động sáng tạo tinh thần của con người. Bao gồm các biểu hiện tượng trưng và “không sờ thấy được” của văn hoá được lưu truyền và biến đổi qua thời gian, với một quá trình tái tạo, “trùng tu” của cộng đồng. Những di sản văn hoá tạm gọi là vô hình này theo UNESCO bao gồm tư tưởng, tín ngưỡng - tôn giáo, nghệ thuật, lễ hội, phong tục, tập quán, đạo đức, ngôn ngữ, văn chương,...

Tác giả Nguyễn Trọng Hoàng cho rằng, VHPVT là những sáng tạo của con người nhằm đáp ứng nhu cầu sinh hoạt xã hội của con người như tôn giáo, triết học, nghệ thuật, âm nhạc, luật pháp, đạo đức, phong cách, lối sống, phong tục tập quán [Nguyễn Trọng Hoàng (2011), Bài giảng cơ sở văn hóa Việt Nam, Trường Đại học Đà Lạt, https://baigiang.violet.vn/present/co-so-van-hoa-viet-nam-5879767.html, Truy cập ngày 05/04/2021],…

Tác giả Ngô Đức Thịnh định nghĩa VHPVT “là một dạng tồn tại (hay thể hiện) của văn hóa không phải dưới dạng vật thể có hình khối tồn tại tong không gian và thời gian, mà nó tiềm ẩn trong trí nhớ, tập tính, hành vi, ứng xử của con người và thông quan các hoạt động sống của con người trong sản xuất, giao tiếp xã hội trong hoạt động tư tưởng và văn hóa-nghệ thuật mà thể hiện ra khiến người ta nhận biết được sự tồn tại của nó”[45, tr. 91].

Cũng theo tác giả Ngô Đức Thịnh, các dạng thức chính của VHPVT bao gồm Ngữ văn truyền miệng (thần thoại, cổ tích, truyền thuyết, ca dao, thành ngữ, tục ngữ, hò, vè, ngụ ngôn...); Diễn xướng dân gian: ca múa, nhạc, sân khấu (nghệ thuật diễn xướng), các hoạt động lễ hội, nghi lễ, trò diễn, phong tục (trình diễn); Những hành vi ứng xử của con người, đó là ứng xử giữa cá nhân với cá nhân, cá nhân trong cộng đồng, ứng xử giữa các cộng đồng; Những hành vi và chuẩn mực ứng xử của con người thường gắn liền với phong tục, tập quán, nghi lễ và chịu chi phối bởi các hình thức tôn giáo, tín ngưỡng [45, tr. 92].

Đặc trưng của VHPVT không tồn tại dưới dạng vật chất, vật thể cụ thể (không kể một số hình thức đã được văn bản hóa) mà nó tiềm ẩn trong trí nhớ và tâm thức của con người và chỉ bộc lộ thông qua hành vi và hoạt động (tức diễn xướng) của con người. Nó mang dấu ấn cá nhân và vai trò sáng tạo của cá nhân rất rò rệt.

Trong điều 4 của luật di sản văn hóa có ghi rò: “Di sản VHPVT là sản phẩm tinh thần có giá trị lịch sử, văn hóa, khoa học được lưu giữ bằng trí nhớ, chữ viết, được lưu truyền bằng truyền miệng, truyền nghề, trình diễn và các hình thức lưu giữ, lưu truyền khác bao gồm tiếng nói, chữ viết, tác phẩm văn học nghệ thuật, khoa học, ngữ văn truyền miệng, diễn xướng dân gian, lối sống, nếp sống, lễ hội, bí quyết về nghề thủ công truyền thống, tri thức y học cổ truyền, văn hóa ẩm thực, trang phục truyền thống dân tộc và những tri thức dân gian khác”.

Tác giả Trần Quốc Vượng (2000) đưa ra khái niệm cho thấy VHPVT là các biểu hiện tượng trưng của văn hóa, là những yếu tố tinh thần trong văn hóa như: âm nhạc, múa, ngôn ngữ, huyền thoại, nghi lễ, bí quyết của nghệ nhân trong chế tác nghề thủ công [55, tr.24]. Và chúng tôi đồng tình với quan điểm này của tác giả.

1.1.4.3. Di sản văn hóa phi vật thể

Di sản văn hóa là tài sản do các thế hệ đi trước để lại, có vai trò vô cùng quan trọng trong diễn trình văn hóa của một dân tộc nói riêng và hiểu theo nghĩa rộng là của cả nhân loại nói chung. Phần mở đầu của Luật Di sản văn hóa Việt Nam đã viết: "Di sản văn hóa Việt Nam là tài sản quý giá của cộng đồng các dân tộc Việt Nam và là một bộ phận của di sản văn hóa nhân loại, có vai trò to lớn trong sự nghiệp dựng nước và giữ nước của nhân dân ta”.

Luật Di sản văn hóa của Việt Nam tại Điều 1 đã nêu rò: “Di sản văn hóa bao gồm di sản văn hóa phi vật thể và di sản văn hóa vật thể, là sản phẩm tinh thần, vật chất có giá trị lịch sử, văn hóa, khoa học, được lưu truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam”.

Di sản văn hóa tồn tại dưới hai dạng: di sản văn hóa vật thể và di sản văn hóa phi vật thể theo quan niệm của UNESCO:

Văn hoá vật thể là các giá trị văn hoá tồn tại một cách hữu hình, con người có thể nhận biết nó một cách cảm tính, trực tiếp thông qua các giác quan.

Văn hoá phi vật thể là các giá trị văn hoá tồn tại một cách vô hình, chủ yếu được ghi nhận trong ký ức của xã hội.

Khái niệm di sản văn hóa phi vật thể được UNESCO sử dụng trong Công ước quốc tế về bảo vệ di sản văn hóa phi vật thể. Di sản văn hóa phi vật thể được hiểu là các tập quán, các hình thức thể hiện, biểu đạt, tri thức, kỹ năng và kèm theo đó là những công cụ, đồ vật, đồ tạo tác và các không gian văn hóa có liên quan mà các cộng đồng và các nhóm và trong một số trường hợp là cá nhân công nhận là một phần di sản văn hóa của họ. Được chuyển giao từ thế hệ này sang thế hệ khác, di sản văn hóa phi vật thể được cộng đồng, các nhóm không ngừng tái tạo để thích nghi với môi trường và mối quan hệ qua lại giữa cộng đồng với tự nhiên và lịch sử của họ, đồng thời hình thành trong họ ý thức về bản sắc và sự kế tục, qua đó khích lệ thêm sự tôn trọng đối với sự đa dạng văn hóa và tính sáng tạo của con người.

Trong Luật Di sản văn hóa năm 2013 tại điều 4 đã nêu rò:

Di sản văn hóa phi vật thể là sản phẩm tinh thần gắn với cộng đồng hoặc cá nhân, vật thể và không gian văn hóa liên quan, có giá trị lịch sử, văn hóa, khoa học, thể hiện bản sắc của cộng đồng, không ngừng được tái tạo và được lưu truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác bằng truyền miệng, truyền nghề, trình diễn và các hình thức khác. [ điều 4, 2013]

1.2. Nội dung Chính sách bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa phi vật thể

Bảo tồn di sản văn hóa là một vấn đề được quan tâm ở Việt Nam trong những năm gần đây. Việt Nam là quốc gia đa dân tộc với 54 dân tộc anh em, mỗi dân tộc đều có những di sản văn hóa tạo nên sự đa dạng và phong phú trong kho di sản chung của cả nước.

Mục tiêu của chính sách

Nhà nước có chính sách bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa nhằm nâng cao đời sống tinh thần của nhân dân, góp phần phát triển kinh tế - xã hội của nhân dân; khuyến khích tổ chức, cá nhân trong nước và nước ngoài đóng góp, tài trợ cho việc bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa.

Nhà nước khuyến khích và tạo điều kiện cho tổ chức, cá nhân tiến hành hoạt động nghiên cứu, sưu tầm, bảo quản, truyền dạy và giới thiệu di sản văn hoá phi vật thể nhằm giữ gìn, phát huy bản sắc văn hoá dân tộc và làm giàu kho tàng di sản văn hoá của cộng đồng các dân tộc Việt Nam.

Các giải pháp tổ chức thực hiện

- Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương (sau đây gọi là Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh) chỉ đạo việc tổ chức lập hồ sơ khoa học di sản văn hoá phi vật thể ở địa phương để bảo vệ và phát huy giá trị.

Bộ trưởng Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch quy định thủ tục lập hồ sơ khoa học về các di sản văn hoá phi vật thể.

- Thủ tướng Chính phủ xem xét quyết định việc đề nghị Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hoá của Liên Hợp Quốc (UNESCO) công nhận di sản văn hoá phi vật thể tiêu biểu của Việt Nam là Di sản văn hoá thế giới, theo đề nghị của Bộ trưởng Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch. Hồ sơ trình Thủ tướng Chính phủ phải có ý kiến thẩm định bằng văn bản của Hội đồng di sản văn hoá quốc gia.

- Cơ quan nhà nước có thẩm quyền phải áp dụng các biện pháp cần thiết để bảo vệ di sản văn hoá phi vật thể, ngăn chặn nguy cơ làm sai lệch, bị mai một hoặc thất truyền.

- Nhà nước có chính sách và tạo điều kiện để bảo vệ và phát triển tiếng nói, chữ viết của các dân tộc ở Việt Nam. Mọi tổ chức, cá nhân có trách nhiệm giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt.

- Nhà nước và xã hội bảo vệ, phát huy những thuần phong mỹ tục trong lối sống, nếp sống của dân tộc; bài trừ những hủ tục có hại đến đời sống văn hoá của nhân dân.

- Nhà nước có chính sách khuyến khích việc sưu tầm, biên soạn, dịch thuật, thống kê, phân loại và lưu giữ các tác phẩm văn học, nghệ thuật, khoa học, ngữ văn

truyền miệng, diễn xướng dân gian của cộng đồng các dân tộc Việt Nam để lưu truyền trong nước và giao lưu văn hoá với nước ngoài.

- Nhà nước có chính sách khuyến khích việc duy trì, phục hồi và phát triển các nghề thủ công truyền thống có giá trị tiêu biểu; nghiên cứu và ứng dụng những tri thức về y, dược học cổ truyền; duy trì và phát huy giá trị văn hoá ẩm thực, giá trị về trang phục truyền thống dân tộc và các tri thức dân gian khác.

- Nhà nước tạo điều kiện duy trì và phát huy giá trị văn hoá của các lễ hội truyền thống; bài trừ các hủ tục và chống các biểu hiện tiêu cực, thương mại hoá trong tổ chức và hoạt động lễ hội. Việc tổ chức lễ hội truyền thống phải theo quy định của pháp luật.

- Nhà nước tôn vinh và có chính sách đãi ngộ đối với nghệ nhân, nghệ sĩ nắm giữ và có công phổ biến nghệ thuật truyền thống, bí quyết nghề nghiệp có giá trị đặc biệt.

- Người Việt Nam định cư ở nước ngoài, tổ chức, cá nhân nước ngoài được tiến hành nghiên cứu, sưu tầm di sản văn hoá phi vật thể ở Việt Nam sau khi có sự đồng ý bằng văn bản của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.

Các giải pháp cụ thể:

Nội dung quản lý nhà nước về di sản văn hoá bao gồm:

1. Xây dựng và chỉ đạo thực hiện chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chính sách phát triển sự nghiệp bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hoá;

2. Ban hành và tổ chức thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật về di sản văn hoá;

3. Tổ chức, chỉ đạo các hoạt động bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hoá; tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về di sản văn hoá;

4. Tổ chức, quản lý hoạt động nghiên cứu khoa học; đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ chuyên môn về di sản văn hoá;

5. Huy động, quản lý, sử dụng các nguồn lực để bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hoá;

6. Tổ chức, chỉ đạo khen thưởng trong việc bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hoá;

7. Tổ chức và quản lý hợp tác quốc tế về bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hoá;

8. Thanh tra, kiểm tra việc chấp hành pháp luật, giải quyết khiếu nại, tố cáo và xử lý vi phạm pháp luật về di sản văn hoá.

9. Nhà nước khuyến khích và tạo điều kiện cho các hội về văn học và nghệ thuật, khoa học và công nghệ tham gia các hoạt động bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hoá.

Nhà nước khuyến khích việc xã hội hoá hoạt động bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hoá.

10. Nguồn tài chính để bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hoá bao gồm:

- Ngân sách nhà nước;

- Các khoản thu từ hoạt động sử dụng và phát huy giá trị di sản văn hoá;

- Tài trợ và đóng góp của tổ chức, cá nhân trong nước và nước ngoài.

1.3. Chủ thể thực hiện chính sách bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa phi vật thể

Trong giai đoạn thực hiện chính sách này, chủ thể quan trọng nhất là cơ quan nhà nước ban hành chính sách đó là Chính phủ mà Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch là cơ quan thường trực. Bên cạnh đó là các cơ quan nhà nước Trung ương khác có liên quan đến chính sách, Ủy ban nhân dân các cấp và các cơ quan chuyên môn của Ủy ban nhân dân các cấp. Bên cạnh các cơ quan nhà nước trên đây, các tổ chức chính trị, xã hội, các doanh nghiệp và quần chúng nhân dân là những chủ thể tham gia thực hiện chính sách bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa phi vật thể ở địa phương.

1.4. Các giai đoạn thực hiện chính sách bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa phi vật thể

Chính sách bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa phi vật thể là một công cụ quản lý xã hội của nhà nước về lĩnh vực bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa phi vật thể. Do đó Nhà nước sử dụng chính sách này để bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa phi vật thể ở cả nước. Vì thế, chính sách bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa phi vật thể sau khi được nhà nước xây dựng và ban hành, việc tổ chức thực hiện chính sách bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa phi vật thể là công việc trọng tâm của nhà nước ở giai đoạn tiếp theo của chu trình chính sách bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa phi vật thể. Thực hiện chính sách công là đưa chính sách bảo tồn và phát huy giá trị văn

Xem tất cả 85 trang.

Ngày đăng: 23/07/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí