sản văn hóa phi vật thể mà chưa quan tâm đến chủ thể sáng tạo nó. Nhiều ý kiến cho rằng đó là sáng tạo của nhân dân mà chưa ý thức đầy đủ khởi thủy sáng tạo, lưu truyền, lưu giữ, trao truyền các di sản văn hóa phi vật thể thống từ thế hệ này qua thế hệ khác. Việc sưu tầm, nghiên cứu còn có vai trò của các nghệ nhân. Phát huy vai trò nghệ nhân trong cộng đồng là công việc cần thiết, phải duy trì thường xuyên, nhưng đáng tiếc chúng ta làm chưa tốt.
Nhiều nhà nghiên cứu cho rằng: những vấn đề về chính sách, con người, nhà đầu tư, các tổ chức xã hội và cộng đồng, nhất là các tổ chức quốc tế... đều là những bộ phận quan trọng trong việc phát huy những giá trị của các di sản văn hóa phi vật thể được UNESCO công nhận. Để bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa phi vật thể một cách căn cơ, giải pháp nhận thức là quan trọng nhất. Vì từ nhận thức được giá trị, vai trò của di sản văn hóa này, chính cộng đồng sẽ biết phải làm gì để bảo tồn và phát huy. Trong những trường hợp cá biệt, chủ thể sáng tạo văn hóa và chủ sở hữu di sản là một cộng đồng cư dân, thì ý chí, khát vọng, nhu cầu, thậm chí lợi ích của họ cũng có tác động không nhỏ đến sự tồn vong của di sản văn hóa phi vật thể, bởi chính họ là nhân tố quyết định những di sản văn hóa phi vật thể nào cần được sử dụng và khai thác nhằm thỏa mãn nhu cầu hưởng thụ văn hóa của cá nhân và cộng đồng. Bên cạnh đó, Nhà nước cần đầu tư nhiều hơn ở lĩnh vực này để đáp ứng nhu cầu thực tiễn, có kế hoạch hoàn chỉnh, xác định những mốc thời gian cụ thể. Có chính sách thỏa đáng, quan tâm hơn nữa các nghệ nhân để họ truyền dạy cho cộng đồng những di sản còn lưu giữ được trong tâm thức. Biết cách khơi dậy sức sáng tạo chủ động của nhân dân trong các hình thức sinh hoạt cộng đồng nhằm đáp ứng nhu cầu hoạt động văn hóa trong thời kỳ mới. Giữ gìn truyền thống văn hóa trong gia đình, trong làng, bản, tạo điều kiện cho quần chúng tiếp nhận thông tin về mọi mặt đời sống kinh tế - xã hội và thực hiện quyền làm chủ của mình. Đặc biệt chú trọng đến tiếng nói của các chủ thể văn hóa, bảo đảm quyền của họ trong sáng tạo và hưởng thụ văn hóa. Mặt khác khuyến khích, tạo điều kiện cho tổ chức, cá nhân nghiên cứu, bảo quản, truyền dạy và giới thiệu di sản văn hóa phi vật thể. Nâng cao chất lượng nghiên cứu khoa học về các giá trị di sản văn hóa phi vật thể đặc sắc, mở
lớp bồi dưỡng về dân ca, dân vũ truyền thống. Nên học tập cách làm ngân hàng dữ liệu di sản văn hóa của các nước đã có kinh nghiệm và điều kiện đi trước.
Ngoài ra, yêu cầu có tính cấp bách là phải chọn lọc được đội ngũ cán bộ thực hiện chính sách bảo tồn giá trị văn hóa phi vật thể giỏi chuyên môn, am hiểu về văn hóa, phong tục tập quán của đồng bào ở khắp mọi miền Tổ quốc. Bởi điều quan trọng đối với việc phát huy những di sản văn hóa phi vật thể là làm cho di sản ấy “sống” giữa cuộc đời, như chính bản chất của nó, góp phần gìn giữ bản sắc văn hóa dân tộc, đưa văn hóa trở thành nền tảng tinh thần của xã hội, đưa di sản văn hóa nói chung, di sản văn hóa phi vật thể nói riêng mãi là tài nguyên phong phú, là sản phẩm du lịch lợi thế của nhiều địa phương.
Nhận thức rò vai trò to lớn của văn hóa đối với sự phát triển kinh tế - xã hội, định hình nên diện mạo của một dân tộc. Chính vì vậy, công tác bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa dân tộc là một trong những điểm cốt lòi trong chính sách về văn hóa của Đảng và Nhà nước ta. Tại Hội nghị Trung ương 5 khóa VIII, khi đưa ra chủ trương “bảo tồn, phát huy và phát triển văn hóa các dân tộc thiểu số”, Đảng Cộng sản Việt Nam đã khẳng định: “Coi trọng và bảo tồn, phát huy những giá trị truyền thống và xây dựng, phát triển những giá trị mới về văn hóa, văn học, nghệ thuật của các dân tộc thiểu số"[10, tr.63]. Quyết định của Thủ tướng Chính phủ số 124/2003/QĐ-TTG ngày 17 tháng 6 năm 2003 về việc phê duyệt đề án bảo tồn, phát triển văn hóa các dân tộc thiểu số Việt Nam với các mục tiêu để bảo tồn, kế thừa có chọn lọc và phát huy những tinh hoa văn hoá truyền thống của các dân tộc. Cũng như trên tinh thần của Nghị quyết Hội nghị Trung ương 5 khóa VIII, Đề án “Bảo tồn, phát triển văn hóa các dân tộc thiếu số Việt Nam đến năm 2020” đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt ngày 27/7/2011.
Thực hiện theo đề án này, UBND tỉnh Đắk Lắk đã ban hành Kế hoạch thực hiện Đề án “Bảo tồn, phát triển văn hoá các dân tộc thiểu số Việt Nam đến năm 2020” trên địa bàn tỉnh nhằm triển khai hiệu quả các tiểu Đề án theo Quyết định số 1270/QĐ-TTg ngày 27/7/2011 của Thủ tướng Chính phủ, qua đó thực hiện tốt công tác bảo tồn và nâng cao năng lực tự bảo vệ trước nguy cơ mai một văn hoá của các dân tộc thiểu số rất ít người, tạo điều kiện phát huy văn hoá các dân tộc thiểu số có
số dân đông; bảo tồn, phát triển văn hoá các dân tộc thiểu số trên địa bàn tỉnh đến năm 2020.
Krông Pắc cũng như các địa phương khác ở tỉnh Đắk Lắk đang nỗ lực triển khai thực hiện chính sách bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa phi vật thể. Việc thực hiện các chính sách bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa phi vật thể ở địa phương đạt được những thành tựu nhất định, tuy nhiên bên cạnh đó, việc thực hiện chính sách này còn gặp phải những tồn tại, hạn chế. Việc ban hành cơ chế chính sách đặc thù của địa phương để thực thi chính sách còn chậm dẫn đến tình trạng một số di sản phi vật thể của cộng đồng nhân dân các dân tộc huyện Krông Pắc ngày một mai một, thậm chí một số di sản đã thất truyền Trước sự vận động và biến đổi không ngừng của thế giới, sự phát triển của nền kinh tế thị trường, xu thế hội nhập hiện nay đã ảnh hưởng lớn đến văn hóa của các dân tộc nói chung và ảnh hưởng tới giá trị văn hóa truyền thống của các dân tộc ở huyện Krông Pắc, tỉnh Đắk Lắk nói riêng. Do sự tác động của nền kinh tế thị trường, do ảnh hưởng mạnh mẽ của các giá trị văn hóa từ các cộng đồng dân cư khác mang tới; ảnh hưởng của tôn giáo mới…, những giá trị văn hóa truyền thống của các tộc người có nguy cơ mai một, đứt gãy trong quá trình hội nhập. Thực trạng này đã đặt ra vấn đề về tính cấp thiết của việc hoàn thiện các giải pháp triển khai thực hiện chính sách về bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa phi vật thể ở huyện Krông Pắc hiện nay.
Từ thực tiễn đó, vấn đề “Thực hiện chính sách bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa phi vật thể trên địa bàn huyện Krông Pắc, tỉnh Đắk Lắk” được chọn làm đề tài luận văn thạc sĩ, chuyên ngành Chính sách công là có ý nghĩa thời sự, lý luận và thực tiễn cấp bách.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Có thể bạn quan tâm!
- Thực hiện chính sách bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa phi vật thể trên địa bàn huyện Krông Pắc, tỉnh Đắk Lắk - 1
- Cơ Sở Lý Luận Về Thực Hiện Chính Sách Bảo Tồn Và Phát Huy Giá Trị Văn Hóa Phi Vật Thể.
- Nội Dung Chính Sách Bảo Tồn Và Phát Huy Các Giá Trị Văn Hóa Phi Vật Thể
- Xây Dựng Kế Hoạch Thực Hiện Chính Sách Bảo Tồn Và Phát Huy Giá Trị Văn Hóa Phi Vật Thể
Xem toàn bộ 85 trang tài liệu này.
Di sản văn hóa phi vật thể nói riêng và hệ thống di sản văn hóa nói chung có quá trình hình thành và phát triển lâu đời, gắn bó hữu cơ với đời sống văn hóa, đời sống xã hội của mỗi quốc gia, do con người tạo ra, được kế thừa, giữ gìn từ thế hệ này sang thế hệ khác.
Văn kiện của Tổ chức UNESCO (1971) mang tên “Khả năng thiết lập các văn kiện quốc tế để bảo vệ văn hóa dân gian” (Posibility establishing international
instrument to protect Folklore). Năm 1989, UNESCO đưa ra văn kiện có tính chất quy phạm quốc tế đầu tiên đó là ‘The recommendation on the Safeguarding of Traditional Culture and Folklore” (Khuyến nghị bảo vệ văn hóa truyền thống và văn hóa dân gian). Như vậy, có thể nói trong năm 1971 đã được hiện thực hóa thành một văn kiện chính thức; phạm vi bảo vệ được mở rộng bao gồm cả văn hóa truyền thống. Năm 1992, một chương trình về di sản văn hóa phi vật thể đã được thiết lập. Năm 1997, chương trình này được UNESCO nâng lên thành chương trình được ưu tiên hàng đầu trong lĩnh vực văn hóa của UNESCO thể hiện cụ thể ở dự án mang tên “công bố chính thức kiệt tác truyền khẩu và di sản văn hóa phi vật thể của nhân loại”. Điều này đã giúp cho khái niệm “di sản thế giới” được hoàn thiện hơn khi mà trước đó chỉ được hiểu là di sản thiên nhiên và các di sản văn hóa vật thể. Đến năm 2003, sau rất nhiều phiên họp thảo luận của UNESCO, Công ước về di sản văn hóa phi vật thể đã được thông qua; đây là kết quả của quá trình nhận thức lâu dài, qua đó đã thiết lập được khái niệm khá toàn diện về di sản văn hóa phi vật thể. Qua những quan niệm trên có thể rút ra một số nhận xét như sau:
Hầu hết các khái niệm đều cố gắng liệt kê ra các dạng của di sản văn hóa phi vật thể như nghệ thuật múa, nhạc, ngôn ngữ, nghề thủ công truyền thống,… Các công trình nghiên cứu này có thể loại trừ một vài nét văn hóa mà trong tương lai mới được biết đến và công nhận là di sản văn hóa phi vật thể. Tuy nhiên, họ cũng đưa ra biểu hiện cụ thể của di sản văn hóa phi vật thể một cách rò ràng, sẽ trả lời được câu hỏi: loại hình mà chúng ta đang cần bảo vệ cụ thể hiện nay là loại hình nào. Các quan niệm trên đều xác định các giá trị nổi bật của di sản văn hóa phi vật thể đó là: giá trị lịch sử, giá trị nghệ thuật, giá trị học thuật. Những giá trị ấy là cốt lòi của vấn đề bảo vệ di sản văn hóa. Bảo vệ không chỉ vì sự hiện diện của một loại hình di sản trong hệ thống di sản văn hóa, mà bảo vệ để lưu giữ những giá trị mà nó đem đến cho cộng đồng. Giá trị ấy là động lực thúc đẩy mỗi quốc gia có những hành động tích cực bảo vệ di sản văn hóa phi vật thể.
Việc cụ thể hóa di sản văn hóa phi vật thể là một điều khó khăn bởi nó không có hình dáng nhất định nhưng có thể thấy con người chính là nơi chứa đựng những di sản văn hóa đó. Những di sản này không hiện hữu một cách rò ràng như một ngôi
chùa, hay một công trình kiến trúc mà cần có con người sử dụng, truyền tải thì người khác mới biết đến sự tồn tại của nó. Nếu những người cuối cùng lưu giữ di sản đó mất đi thì những di sản ấy cũng sẽ biến mất. Vì vậy, con người là trung tâm của di sản văn hóa phi vật thể.
Ở nước ta, Tại Việt Nam mặc dù đến năm 2001 mới có Luật Di sản văn hóa nhưng việc bảo vệ di sản văn hóa đã được đặt ra trước đó khá lâu. Các bộ Luật thời trung đại (Quốc triều hình luật - đời Lý; Lê triều hình luật - Luật Hồng Đức, thời Lê; Hoàng Việt luật lệ - Luật Gia Long, thời Nguyễn) và các bộ sử, chí, lục thời trung đại (Đại Việt sử kí toàn thư, Lam Sơn thực lục, Việt sử thông giám cương mục, Đại Nam nhất thống chí, Gia Định thành thông chí, Đại Nam thực lục…) có thể thấy, các vị vua phong kiến xưa cũng đã ý thức được việc phải bảo vệ các di sản văn hóa. Đặc biệt là các công trình kiến trúc tôn giáo thể hiện sự tôn nghiêm, uy quyền của thần thánh, của nhà vua, được xây dựng với công sức đóng góp của toàn dân, thể hiện tài năng, trí óc, tâm linh, tình cảm, niềm tin, hi vọng của các vương triều cũng như cộng đồng nhân dân được hết sức giữ gìn.
Đến thời kì lịch sử hiện đại, văn bản đầu tiên đề cập đến vấn đề này là Sắc lệnh số 65/SL ngày 23 ngày 11 năm 1945 của Chính phủ nước Việt Nam dân chủ cộng hòa “Ấn định nhiệm vụ của Đông phương bác cổ học viện”. Sắc lệnh khẳng định việc bảo tồn cổ tích là công việc rất quan trọng và rất cần thiết cho công cuộc kiến thiết nước Việt Nam.
Năm 1958, tại Hội nghị cán bộ văn hóa, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Những câu tục ngữ, những câu vè, cao dao rất hay là những sáng tác của quần chúng. Các sáng tác ấy rất hay mà lại ngắn, chứ không “trường thiên đại hải”, dây cà ra dây muống. Các cán bộ văn hóa cần phải giúp sáng tác của quần chúng. Những sáng tác ấy là những hòn ngọc quý” [31, tr.125-127 ]
Những lời nói giản dị của Chủ tịch Hồ Chí Minh từ cách đây hơn nửa thế kỷ đã là những định hướng đầu tiên về vấn đề bảo vệ di sản văn hóa phi vật thể.
Đến năm 2001, lần đầu tiên vấn đề bảo vệ di sản văn hóa được thể chế hóa thành Luật. Ngày 29/06/2001 Quốc hội nước ta đã ban hành Luật di sản văn hóa, tiếp đó được sửa đổi bổ sung bởi Luật số 32/2009/QH12 sửa đổi bổ sung một số
điều của Luật di sản văn hóa 2001. [chương I, điều 4] đây là cơ sở pháp lý để chúng ta thực hiện chính sách bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa phi vật thể trong bối cảnh vừa phát triển kinh tế-xã hội; vừa bảo vệ di sản văn hóa cho muôn đời sau.
Tác giả Lê Đình Thành có nghiên cứu về “Thực hiện chính sách bảo tồn di sản văn hóa phi vật thể ở Phú Thọ”. Tác giả phân tích đánh giá: Để di sản văn hóa phi vật thể lan tỏa trong cộng đồng, có thể nói, đến thời điểm này, Phú Thọ đã rất chú trọng, quan tâm tới công tác thực hiện chính sách bảo tồn, phát huy giá trị các di sản văn hóa phi vật thể và đã đạt được những thành tựu đáng trân trọng. Tuy nhiên, cũng như các địa phương khác trên cả nước, Phú Thọ còn rất nhiều khó khăn trong quá trình thực hiện chính sách bảo tồn và phát huy giá trị các di sản văn hóa phi vật thể với thực trạng nguy cơ thất truyền, mai một của nhiều loại hình di sản văn hóa phi vật thể, việc phát huy giá trị các lễ hội truyền thống còn nhiều hạn chế; việc sưu tầm, bảo tồn và phát huy các di sản văn hóa phi vật thể chưa tương xứng với tiềm năng hiện có; nguồn kinh phí, ngân sách, phương tiện, con người cần đầu tư, bố trí cho lĩnh vực này còn khó khăn [40].
Tác giả nêu lập luận: Để nâng cao chất lượng và hiệu quả trong thực hiện chính sách bảo tồn, phát huy giá trị di sản văn hóa phi vật thể trên địa bàn tỉnh, việc cần thiết và cơ bản chính là bằng biện pháp đưa những di sản văn hóa này trở lại với cộng đồng sinh hoạt văn hóa, bằng cách khơi dậy tình yêu, lòng tự hào đối với truyền thống của dân tộc trong mỗi người dân tới toàn cộng đồng. Thực hiện tốt công tác kiểm kê, lập hồ sơ khoa học di sản văn hóa phi vật thể tại địa phương một cách khoa học và có hệ thống thông qua việc tư liệu hóa, vật thể hóa hệ thống di sản văn hóa phi vật thể nhằm nhận diện và xác định mức độ tồn tại, giá trị và sức sống của từng loại di sản văn hóa phi vật thể trong cộng đồng trên cơ sở đó đề xuất phương án bảo tồn, phát huy một cách hiệu quả. Bên cạnh đó, cần tăng cường thực hiện cơ chế chính sách đặc thù để tăng cường quản lý nhà nước đối với hoạt động trên, gắn trách nhiệm của các cấp chính quyền, đoàn thể và người dân nhằm thực hiện xã hội hóa công tác bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa; tăng cường tuyên truyền về bảo tồn văn hóa phi vật thể cho người dân nâng cao nhận thức về truyền thống văn hóa của dân tộc để từ đó mỗi cá nhân có ý thức bảo vệ di sản. Đồng thời đưa di sản văn hóa phi vật thể vào bảo quản trong các kho tư liệu, vào giảng dạy trong nhà trường, tổ chức sinh hoạt trong cộng đồng hay tại các bảo tàng
và có chính sách, chế độ cho các nghệ nhân, những cá nhân có công sức gìn giữ, bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa dân tộc.
Tác giả Khánh Vân trong chuyên đề khoa học “Thực hiện chính sách bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa phi vật thể ở Sơn La” [53], tác giả phân tích sâu sắc: Thực hiện Luật Di sản Văn hóa, Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Sơn La đã làm tốt công tác xây dựng chính sách này thông qua các hoạt động: kiểm kê di tích lịch sử - văn hóa và danh lam thắng cảnh trên địa bàn, đánh giá thực trạng về tổ chức thực hiện chính sách bảo tồn, phát huy giá trị các di tích đã được xếp hạng. Đồng thời, tổ chức điều tra, khảo sát, nghiên cứu lập hồ sơ khoa học đề nghị các cấp xếp hạng các di tích lịch sử - văn hóa, danh lam thắng cảnh trên địa bàn toàn tỉnh. Tác giả phân tích để thực hiện chính sách này, cơ quan chủ trì thực hiện chính sách đã xây dựng kế hoạch thực hiện; tiến hành các hoạt động như: thống kê, tỉnh ta hiện có 96 di tích được đưa vào danh mục, trong đó, 1 di tích quốc gia đặc biệt, 16 di tích quốc gia, 46 di tích cấp tỉnh, 33 di tích chưa được xếp hạng. Các đơn vị, địa phương được giao quản lý các di tích lịch sử và danh lam, thắng cảnh đã làm tốt công tác bảo tồn và khai thác hiệu quả, hàng năm thu hút hàng nghìn lượt người tham quan, học tập và nghiên cứu, góp phần vào việc giáo dục truyền thống, ý thức phát huy bản sắc văn hóa dân tộc, xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh trong các tầng lớp nhân dân. Một số di tích đã có nguồn thu từ phí tham quan để đầu tư trở lại cho công tác trùng tu, tôn tạo, chống xuống cấp, như: Di tích Quốc gia đặc biệt Nhà tù Sơn La, Di tích Văn bia Quế lâm Ngự chế - Đền thờ Vua Lê Thái Tông, Di tích lịch sử lưu niệm Trung đoàn Tây Tiến...Để thực hiện duy trì chính sách ở địa phương, cơ quan chủ trì thực hiện chính sách là Sở Văn hóa Thể thao và Du lịch đã phối hợp với chính quyền địa phương tổ chức bảo tồn các tư liệu, hiện vật văn hóa, lịch sử, dân tộc luôn được quan tâm, Bảo tàng tỉnh đang lưu giữ hơn 20 ngàn tài liệu, hiện vật, trong đó có các sưu tập hiện vật quý, như: Sưu tập đồ đồng, trống đồng; sách chữ Thái cổ, Dao cổ; trang phục các dân tộc thiểu số... được trưng bày theo một số chuyên đề trong không gian của Di tích quốc gia đặc biệt Nhà tù Sơn La, như: Đặc trưng văn hóa các dân tộc Sơn La; Khảo cổ học Sơn La thời kỳ Tiền - Sơ sử; Bác Hồ với nhân dân các dân tộc Sơn La; các di sản văn hóa tiêu biểu của các dân tộc
được công nhận và đưa vào danh mục di sản văn hóa phi vật thể quốc gia. Nhà trưng bày “Di sản văn hóa vùng lòng hồ Thủy điện Sơn La” với hệ thống kho bảo quản hơn 6.000 hiện vật được sưu tầm, khai quật trong vùng ngập của Nhà máy thủy điện Sơn La và hệ thống trưng bày các hiện vật được khai quật từ các di chỉ khảo cổ học, quá trình xây dựng Nhà máy thủy điện Sơn La; văn hóa các dân tộc trong vùng ngập của lòng hồ thủy điện Sơn La.
Đề công tác thực hiện chính sách được duy trì liên tục, Sở Văn hóa Thể thao và Du lịch đã thực hiện việc kiểm tra thực hiện các nội dung của chính sách bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa phi vật thể như: tiến hành kiểm kê di sản văn hóa của các dân tộc trên địa bàn để nhận diện đầy đủ đặc trưng văn hóa của các dân tộc, các ngành và các nhóm địa phương với 9 dân tộc, gồm: Thái, Mông, Dao, Mường, Xinh Mun, Khơ Mú, La Ha, Lào, Kháng và nghiên cứu lập hồ sơ khoa học di sản văn hóa phi vật thể tiêu biểu, đề nghị đưa vào danh mục di sản văn hóa phi vật thể quốc gia. Kết quả, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đã công nhận và đưa vào danh mục di sản văn hóa phi vật thể quốc gia 12 di sản văn hóa tiêu biểu, đó là: Chữ viết cổ dân tộc Thái, Lễ Hết Chá dân tộc Thái (nhóm Thái trắng Mộc Châu); nghệ thuật xòe Thái; lễ cúng dòng họ dân tộc Mông; lễ Pang A (cầu an) của dân tộc La Ha; nghi lễ cấp sắc của dân tộc Dao; nghệ thuật khèn của người Mông huyện Mộc Châu; nghi lễ truyền thống trong đám cưới của người Dao tiền; lễ gội đầu của người Thái trắng huyện Quỳnh Nhai; nghệ thuật tạo hoa văn trên trang phục của người Mông hoa huyện Mộc Châu; nghi lễ Mạng Ma (cầu sức khỏe) của người Xinh Mun, xã Chiềng On, huyện Yên Châu; nghi lễ Kin Pang Then của người Thái trắng. Duy trì tốt hoạt động nghiên cứu, sưu tầm, chế tác, thể hiện, truyền dạy và tư liệu hóa văn hóa truyền thống của các dân tộc, như: Nhạc cụ của người Mông, Thái, Dao, Khơ Mú; các làn điệu dân ca của người Dao, Thái, Mường, Mông; nghề làm giấy và nghệ thuật vẽ tranh thờ trên giấy dó của người Dao; nghi lễ cúng vía trâu của người Thái; lễ cúng bản của người La Ha; lễ mừng cơm mới của người Lào; nghề thêu và in hoa văn bằng sáp ong trên vải của dân tộc Mông...
Bên cạnh đó, từ năm 1992 đến nay toàn tỉnh thường xuyên duy trì trên 3.000 đội văn nghệ quần chúng tại các bản, tổ, tiểu khu. Ngoài kinh phí hỗ trợ 2 triệu