Sơ Kết, Tổng Kết Thực Hiện Chính Sách Bảo Hiểm Thất Nghiệp


Hàng tháng, cơ sở dạy nghề lập danh sách và có chữ ký của NLĐ đang học nghề chuyển cơ quan BHXH để thanh, quyết toán kinh phí hỗ trợ học nghề theo tháng và thời gian NLĐ thực tế học nghề. Trình tự, thủ tục, hình thức chi trả hỗ trợ học nghề theo hướng dẫn của BHXH Việt Nam.

d) Tổ chức thực hiện chính sách tư vấn, giới thiệu việc làm

Hoạt động giới thiệu việc làm được thực hiện thông qua Trung tâm DVVL cho các đối tượng là NLĐ đang đóng BHTN bị chấm dứt HĐLĐ hoặc hợp đồng làm việc mà có nhu cầu tư vấn, giới thiệu việc làm và NLĐ đang trong thời gian hưởng TCTN. Người lao động thất nghiệp ghi đầy đủ thông tin vào phiếu tư vấn, giới thiệu việc làm theo mẫu do Bộ trưởng bộ LĐTBXH quy định và nộp trực tiếp cho Trung tâm DVVL thuộc sở LĐTBXH địa phương (Điều 14, Nghị định 28/2015/NĐ-CP). Trung tâm DVVL tiếp nhận, tổ chức tư vấn, giới thiệu việc làm trên cơ sở nhu cầu, khả năng của NLĐ và nhu cầu của thị trường lao động. Gửi phiếu giới thiệu việc làm để NLĐ tham gia dự tuyển lao động và theo dõi kết quả dự tuyển lao động để kịp thời hỗ trợ NLĐ.

đ) Tổ chức thực hiện chính sách hỗ trợ đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao trình độ kỹ năng nghề

Từ năm 2015 đến nay, chính sách BHTN được quy định tại Luật Việc làm 2013 và các văn bản hướng dẫn đã bổ sung thêm chế độ hỗ trợ đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao trình độ kỹ năng nghề để duy trì việc làm cho NLĐ. Người sử dụng lao động có trách nhiệm tổ chức đào tạo hoặc phối hợp với cơ sở dạy nghề, Trung tâm DVVL để tổ chức đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ kỹ năng nghề cho NLĐ, bảo đảm duy trì việc làm cho NLĐ và sử dụng lao động đúng theo phương án đã được phê duyệt. Trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày kết thúc khóa đào tạo, NSDLĐ có trách nhiệm báo cáo kết quả thực hiện về Sở LĐTBXH. Kinh phí hỗ trợ được bảo đảm từ quỹ BHTN. Để được hỗ trợ, NSDLĐ nộp hồ sơ đề nghị đến Sở LĐTBXH nơi có trụ sở chính để thẩm định. Trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày nhận đủ hồ sơ, Sở LĐTBXH sẽ chủ trì, phối hợp với Sở Tài chính thẩm định hồ sơ để xem xét, quyết định hỗ trợ, nếu không đồng ý phải trả lời bằng văn bản và nêu rõ lý do.


1.3.3.5. Giám sát, kiểm tra, chỉ đạo thực hiện chính sách bảo hiểm thất nghiệp Giám sát, kiểm tra, chỉ đạo thực hiện chính sách, pháp luật về BHTN là một nhiệm vụ, một khâu quan trọng trong thực hiện chính sách BHTN. Công tác này thực hiện kiểm tra, rà soát toàn bộ quá trình tổ chức thực hiện chính sách, pháp luật về BHTN phát hiện những vấn đề phát sinh. Trên cơ sở đó phân tích xử lý thông tin, đối chiếu, so sánh với các quy định trong chính sách, các quy định trong kế hoạch, quy chế thực hiện chính sách để có cơ sở phát hiện, phòng ngừa và xử lý vi phạm (nếu có); phát hiện sơ hở trong công tác quản lý, trong tổ chức thực hiện để có các biện pháp ngăn chặn, xử lý kịp thời; đề xuất các giải pháp chấn chỉnh việc thực hiện, điều chỉnh các biện pháp, cơ chế góp phần hoàn thiện chính sách và nâng cao hiệu quả thực hiện chính sách BHTN. Để có được thông tin cần thiết, các cơ quan QLNN về BHTN trong phạm vi thẩm quyền có thể tự mình ban hành hoặc phối hợp ban hành các văn bản quy phạm pháp luật quy định chế độ thống kê, báo cáo. Các chế độ thống kê, báo cáo này được quy định đối với cơ quan QLNN ở địa phương, doanh nghiệp và các tổ chức có liên quan đến thực thi chính sách BHTN. Tùy theo nhiệm vụ, chức trách được phân công và mối liên quan đến thực thi chính sách BHTN mà nội dung, chế độ thống kê, báo cáo có quy định khác nhau. Chế độ báo cáo được quy định như: Báo cáo nhanh, báo cáo định kỳ theo tháng, quý, năm, báo

cáo 6 tháng, báo cáo năm, báo cáo thanh tra, kiểm tra ...

1.3.3.6. Sơ kết, tổng kết thực hiện chính sách bảo hiểm thất nghiệp

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 128 trang tài liệu này.

Tổ chức thực hiện chính sách BHTN được tiến hành và duy trì liên tục, trong quá trình đó các cơ quan QLNN có thể đánh giá từng phần hoặc theo từng giai đoạn thực hiện chính sách. Đánh giá sơ kết, tổng kết thực hiện chính sách BHTN được hiểu là quá trình xem xét, kết luận về chỉ đạo, điều hành và chấp hành chính sách của các đối tượng thực thi chính sách. Đối tượng được xem xét, đánh giá tổng kết về chỉ đạo, điều hành thực thi chính sách BHTN là các cơ quan nhà nước từ trung ương đến địa phương. Ngoài ra còn xem xét cả vai trò, chức năng của các tổ chức chính trị - xã hội trong việc tham gia thực thi chính sách BHTN. Bên cạnh việc sơ kết, tổng kết đánh giá kết quả chỉ đạo điều hành của các ngành, cơ quan nhà nước


Thực hiện chính sách bảo hiểm thất nghiệp ở tỉnh Hải Dương - 7

có liên quan đến thực thi chính sách BHTN còn xem xét, đánh giá việc thực thi của các đối tượng tham gia thực hiện chính sách bao gồm các đối tượng thụ hưởng trực tiếp và gián tiếp từ chính sách BHTN.

Sơ kết, tổng kết đánh giá rút kinh nghiệm kết quả chỉ đạo, điều hành thực hiện chính sách BHTN là công việc khó, phức tạp trong quá trình thực hiện chính sách, đòi hỏi các cơ quan, tổ chức và cá nhân tham gia vào công tác này phải có trình độ, năng lực, kiến thức và kỹ năng nhất định để đánh giá được chính xác kết quả và rút ra bài học kinh nghiệm trong thực hiện chính sách BHTN.

1.3.4. Các yếu tố ảnh hưởng đến thực hiện chính sách bảo hiểm thất nghiệp

1.3.4.1. Các yếu tố khách quan

- Trình độ phát triển của nền kinh tế và điều kiện phát triển kinh tế xã hội:

Trình độ phát triển của nền kinh tế là tiền đề vật chất và tiền đề kỹ thuật để nâng cao hiệu quả thực hiện chính sách BHTN. Nó vừa là điều kiện, vừa là kết quả của việc thực hiện các chính sách xã hội. Quốc gia có trình độ kinh tế phát triển cao sẽ có điều kiện vật chất để bảo đảm ASXH cho người dân, trong đó có BHTN. Trình độ phát triển kinh tế là tiền đề cho việc nâng cao hiệu quả thực hiện chính sách BHTN thông qua việc áp dụng khoa học kỹ thuật vào quản lý, tận dụng tối đa công nghệ thông tin để thực hiện quản lý người thất nghiệp.

Điều kiện phát triển kinh tế xã hội ảnh hưởng trực tiếp đến nguồn thu quỹ BHTN. Khi kinh tế xã hội kém phát triển, hoạt động SXKD của các doanh nghiệp bị ảnh hưởng sẽ không đủ điều kiện để đóng BHTN cho NLĐ, nguồn thu quỹ BHTN sẽ bị giảm sút. Khi nền kinh tế đi xuống sẽ có nhiều doanh nghiệp phá sản, ngừng hoạt động hoặc phải thay đổi phương án SXKD dẫn tới NLĐ bị mất việc làm, gia tăng tình trạng thất nghiệp. Nguồn thu quỹ BHTN bị giảm sút không đủ chi trả cho các chế độ sẽ dẫn đến ảnh hưởng đến hiệu quả tổ chức thực hiện chính sách BHTN.

Trình độ phát triển kinh tế của nước ta vẫn còn thấp, cân đối vĩ mô nhiều khi chưa vững chắc, tăng trưởng vẫn thiên về chiều rộng, chất lượng nguồn nhân lực còn hạn chế, trình độ khoa học, công nghệ còn yếu. Quá trình hội nhập kinh tế quốc


tế đã làm tăng sức ép cạnh tranh quyết liệt của các doanh nghiệp. Chính sự cạnh tranh đó đã làm nhiều doanh nghiệp bị phá sản, nhiều cơ sở sản xuất phải tinh giản biên chế. Tình trạng đó làm gia tăng số lượng NLĐ bị thất nghiệp. Toàn cầu hóa và quá trình đô thị hóa diễn ra mạnh mẽ cũng mất đi nhiều ngành nghề truyền thống, đồng thời cũng hình thành nhiều ngành nghề mới đòi hỏi đội ngũ lao động có trình độ cao hơn dẫn đến số lượng người thất nghiệp tăng cao nếu không được đào tạo và chuẩn bị về mặt công nghệ, quản lý. Do vậy, có thể nói đây là nhân tố tác động trực tiếp tới hiệu quả thực hiện chính sách về BHTN.

- Phạm vi bao phủ: Mục tiêu của các nhà hoạch định chính sách BHTN là phạm vi bao phủ của chính sách ngày càng được mở rộng hơn nữa. Phạm vi bao phủ là một nhân tố ảnh hưởng mạnh đến hiệu quả công tác QLNN về BHTN. Vì nó liên quan đến đối tượng quản lý, số thu, mức chi, cơ cấu tổ chức bộ máy quản lý, khả năng kiểm tra, giám sát … Trong giai đoạn đầu, chính sách BHTN mới chỉ trong nhóm đối tượng NLĐ, NSDLĐ có khả năng mất việc cũng như có nguy cơ giải thể, phá sản, ngừng SXKD. Pháp luật quy định cụ thể đối tượng NLĐ giao kết HĐLĐ, hợp đồng làm việc từ 12 tháng trở lên và doanh nghiệp, tổ chức có sử dụng từ 10 lao động trở lên thuộc đối tượng tham gia BHTN. Như vậy, đối tượng tham gia BHTN đương nhiên bị “giới hạn” cả về NLĐ và NSDLĐ. Sở dĩ có điều này là do lo ngại về khả năng an toàn của quỹ; những nghi ngại về khả năng rủi ro, thất nghiệp cao của nhóm NLĐ yếu thế cũng như sự bền vững của đơn vị nhỏ. Tuy nhiên, điều này đã làm nảy sinh sự bất bình đẳng giữa các doanh nghiệp lớn và nhỏ, giữa những người làm việc theo hợp đồng mùa vụ, những người làm việc theo các loại hợp đồng dưới 12 tháng và nhóm lao động làm việc trong khu vực phi kết cấu. Do đó, khi chính sách đã được thực hiện một vài năm, việc tăng phạm vi bao phủ của chính sách là điều rất cần thiết. Hiện nay, NLĐ giao kết HĐLĐ từ 03 tháng trở lên và doanh nghiệp, tổ chức sử dụng từ 01 NLĐ trở lên thuộc đối tượng tham gia BHTN. Việc mở rộng đối tượng tham gia BHTN theo hướng để thuận lợi cho NLĐ, NSDLĐ cũng như công tác tổ chức thực hiện chính sách BHTN sao cho phù hợp với điều kiện thực tế tại từng thời điểm.


- Chu kỳ kinh doanh: Biến động luân chuyển của chu kỳ kinh doanh dẫn đến cung và cầu lao động trên thị trường lao động cũng thay đổi theo. NLĐ trong các ngành, nghề không phù hợp với thị trường sẽ bị mất việc làm và trở thành lao động thất nghiệp. Số lao động thất nghiệp càng tăng, biến động của chu kỳ kinh doanh càng lớn thì việc quản lý lại càng khó khăn. Ngoài việc quản lý, giải quyết TCTN thì còn phải thực hiện tư vấn, đào tạo, giới thiệu việc làm cho NLĐ bị thất nghiệp. Công tác đào tạo nghề cho NLĐ để họ có trình độ chuyên môn đáp ứng yêu cầu của thị trường lao động cần phải có thời gian. Thời gian đào tạo kéo dài sẽ làm cho NLĐ chậm tìm được việc làm mới, ảnh hưởng đến hiệu quả thực hiện chính sách BHTN.

- Sự phát triển của thị trường lao động: Tác động trực tiếp đến điều tiết lao động và việc làm. Thị trường lao động phát triển sẽ góp phần điều tiết lao động giữa những nơi thừa lao động và những nơi thiếu lao động và giúp NLĐ dễ ràng tìm được việc làm phù hợp với trình độ chuyên môn, giúp giảm tình trạng thất nghiệp. Trường hợp ngược lại, sẽ làm gia tăng tình trạng tỷ lệ thất nghiệp trong nền kinh tế. Các hoạt động hỗ trợ phát triển thị trường lao động như tổ chức các sàn giao dịch việc làm định kỳ, thường xuyên; điều tra, khảo sát thị trường lao động để phục vụ công tác quản lý, phân tích, dự báo thị trường lao động; xây dựng phương pháp, cách thức thu thập, cập nhật thông tin về lao động, việc làm phục vụ nhu cầu hoạch định chính sách; tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động giao dịch, kết nối việc làm ... sẽ là những điều kiện thuận lợi cho thực hiện chính sách BHTN.

- Trình độ phát triển văn hóa, xã hội: Yếu tố văn hóa, xã hội, tập quán của dân cư có ảnh hưởng trực tiếp đến hành vi của con người, qua đó ảnh hưởng đến thực hiện chính sách BHTN. Nó chi phối đến tác phong, tư tưởng, quan điểm, lối sống trong sinh hoạt và lao động NLĐ và ảnh hưởng không nhỏ đến tỷ lệ thất nghiệp. Thực tế cho thấy, những nơi có điều kiện kinh tế - xã hội phát triển, có mức sống cao, trình độ học vấn cao thường cũng có đòi hỏi cao hơn đối với việc làm và thu nhập từ việc làm đó, điều này thường dẫn đến hệ lụy là tỷ lệ thất nghiệp tăng. Thất


nghiệp thay đổi thì tất yếu sẽ dẫn tới việc QLNN trong thực hiện chính sách BHTN càng khó khăn và phức tạp hơn. Phong tục, tập quán, văn hoá của NLĐ ảnh hưởng đến ứng xử, văn hóa của họ, qua đó ảnh hưởng đến hoạt động thực hiện chính sách BHTN. Nhiều trường hợp NLĐ, NSDLĐ nhận thức về BHTN chưa cao, chưa hiểu hết quyền và trách nhiệm của mình trong thực hiện BHTN đã không tham gia đóng BHTN hoặc có những hành vi trục lợi BHTN.

1.3.4.2. Các yếu tố chủ quan

- Tỷ lệ, mức đóng quỹ bảo hiểm thất nghiệp: Tổ chức thực hiện chính sách BHTN chỉ có thể thực hiện hiệu quả khi có quy định cụ thể, phù hợp về tỷ lệ, mức đóng góp bởi quỹ BHTN được hình thành từ nguồn đóng góp của 3 chủ thể với những lợi ích khác nhau là NLĐ, NSDLĐ và nhà nước. Mức đóng góp quá cao sẽ làm gia tăng tình trạng trốn đóng, nợ đóng và ngược lại mức đóng góp thấp sẽ không có nguồn chi trả các chế độ BHTN, gia tăng gánh nặng lên ngân sách nhà nước. Mức đóng góp của NLĐ phải được tính toán bằng tỷ lệ phần trăm phù hợp trên mức lương NLĐ đang hưởng sao cho sau khi trừ khoản tiền tham gia BHTN họ vẫn đủ trang trải cuộc sống. Để NSDLĐ có trách nhiệm đóng thì tỷ lệ đóng góp cũng phải được tính toán phù hợp và nhà nước phải có biện pháp, chế tài cụ thể đối với hành vi chậm đóng hoặc không thực hiện nghĩa vụ đóng BHTN để đảm bảo quyền lợi cho NLĐ. Đối với nhà nước, việc trích một phần từ ngân sách vào quỹ BHTN có ý nghĩa thực tiễn vô cùng quan trọng. Có khoản hỗ trợ này giúp NLĐ và NSDLĐ giảm bớt gánh nặng đóng quỹ, hạn chế khả năng vỡ quỹ, bảo đảm cho việc tổ chức thực hiện chính sách.

- Quy trình, thủ tục giải quyết quyền lợi bảo hiểm thất nghiệp: Đơn giản hóa quy trình, thủ tục giải quyết, bảo đảm quyền lợi của NLĐ và NSDLĐ được giải quyết nhanh chóng và đầy đủ nhất sẽ tạo hiệu ứng tốt cho người đã, đang và sẽ tham gia BHTN. Người lao động, NSDLĐ sẽ tích cực tham gia chính sách BHTN khi quyền lợi của họ được giải quyết nhanh chóng, thuận tiện. Do vậy đòi hỏi việc xây dựng và ban hành quy trình, thủ tục giải quyết quyền lợi BHTN phải đáp ứng được yêu cầu thực tiễn.


- Tuyên truyền, phổ biến chính sách bảo hiểm thất nghiệp: Thông qua hoạt động tuyên truyền, phổ biến các nội dung của chính sách, NLĐ và NSDLĐ ý thức được vai trò, trách nhiệm và quyền lợi của mình và tích cực, tự giác tham gia BHTN qua đó tạo điều kiện tốt cho thực hiện chính sách, làm tăng hiệu lực, hiệu quả thực hiện chính sách.

- Năng lực của chủ thể thực hiện chính sách: Mô hình quản lý BHTN là yếu tố tác động trực tiếp, quyết định đến hiệu quả, hiệu lực QLNN và thực hiện chính sách BHTN. Mô hình quản lý tập trung thường nâng cao được tính thống nhất trong quản lý và mô hình quản lý theo hướng chuyên môn hóa thì hiệu quả quản lý cao. Việc lực chọn mô hình quản lý nào phụ thuộc vào đặc điểm chính trị, kinh tế và xã hội của từng quốc gia.

- Nhận thức của chủ thể thực hiện chính sách: Nhận thức và ý thức tuân thủ chính sách pháp luật về BHTN của NLĐ và NSDLĐ là yếu tố tác động trực tiếp đến hiệu quả, hiệu lực QLNN đối với thực hiện chính sách BHTN. Nếu NLĐ và NSDLĐ có ý thức tuân thủ chính sách pháp luật về BHTN tốt thì hiệu quả, hiệu lực QLNN đối với thực hiện chính sách BHTN được nâng lên và ngược lại ý thức chấp hành pháp luật nói chung và pháp luật về BHTN nói riêng còn hạn chế dẫn đến ảnh hưởng đến quyền và lợi ích của NLĐ, NSDLĐ và hiệu quả thực hiện chính sách BHTN.

1.3.5. Tiêu chí đánh giá kết quả thực hiện chính sách bảo hiểm thất nghiệp

1.3.5.1. Tiêu chí đánh giá kết quả thực hiện chính sách đóng quỹ bảo hiểm thất nghiệp

Có thể sử dụng các chỉ số như số lượng người tham gia đóng BHTN; tỷ lệ phần trăm giữa số NLĐ tham gia đóng BHTN trong tổng số NLĐ; tỷ lệ NSDLĐ đóng BHTN trong tổng số NSDLĐ; số NSDLĐ đóng BHTN đúng, đủ theo quy định; tổng số tiền đóng BHTN; tổng số tiền ngân sách nhà nước hỗ trợ quỹ BHTN; số tiền đóng BHTN bình quân NLĐ ... để đánh giá kết quả thực hiện chính sách BHTN.


Bảo hiểm thất nghiệp xuất phát từ QHLĐ và hoạt động chủ yếu dựa trên tình trạng việc làm của NLĐ. Do đó, việc quy định đối tượng tham gia khác nhau tùy vào từng thời điểm là điều rất quan trọng, không chỉ điều chỉnh nguồn thu mà còn tác động nguồn chi BHTN. Trong thời gian đầu, khi chính sách mới đi vào cuộc sống, đối tượng tham gia BHTN cần được giới hạn để đảm bảo quỹ, sau đó có thể được mở rộng dần để nhằm hỗ trợ cho nhiều nhóm NLĐ yếu thế khi bị mất việc làm. Nhóm NLĐ yếu thế có thể xem xét đến những NLĐ làm việc ở khu vực phi kết cấu, lao động làm việc dưới hình thức hợp đồng ngắn hạn hoặc làm việc trong những doanh nghiệp nhỏ, doanh nghiệp hoạt động trong các ngành nghề không phải là ngành nghề mũi nhọn.

Thu BHTN là khâu rất quan trọng cho sự vận hành của chính sách BHTN. Công tác thu phải bảo đảm thu đúng, thu đủ và tránh tình trạng trốn đóng, chậm đóng BHTN. Xu hướng tỷ lệ thuận giữa số lượng lao động trong doanh nghiệp với số lượng người tham gia BHXH bắt buộc, BHTN cũng được thể hiện khá rõ thông qua hoạt động thu BHTN. Quy mô sử dụng lao động của doanh nghiệp càng cao thì số lượng người tham gia BHXH bắt buộc, BHTN càng lớn và tỷ lệ thuận với số thu BHTN. Cùng với việc mở rộng đối tượng tham gia BHTN cần có các biện pháp nhằm tăng cường công tác thu BHTN, hạn chế tình trạng trốn đóng, nợ đóng BHTN gây ảnh hưởng đến quyền lợi của NLĐ cũng như ảnh hưởng đến an toàn quỹ BHTN.

1.3.5.2. Tiêu chí đánh giá kết quả thực hiện chính sách trợ cấp thất nghiệp

Việc chi BHTN đảm bảo 3 đúng “đúng đối tượng, đúng chế độ, đúng thời hạn” không những tạo điều kiện cho NLĐ trong quá trình thụ hưởng chính sách mà còn đảm bảo độ an toàn của quỹ BHTN. Có thể sử dụng các chỉ số đánh giá về tiến độ xử lý cho từng chế độ BHTN đối với người thất nghiệp; tỷ lệ giữa số quyết định hưởng TCTN đúng chế độ với tổng số người hưởng TCTN trong kỳ ... Mức và thời gian hưởng TCTN cần phải luôn được đánh giá, xem xét và điều chỉnh cho phù hợp với thực tế nhằm đảm bảo cho việc hỗ trợ đúng cho NLĐ cũng như hạn chế tình trạng lạm dụng chính sách. Mặt khác, cần quan tâm đến các nguyên nhân nghỉ việc của NLĐ để tránh tình trạng lạm dụng chính sách như: Bỏ việc để hưởng TCTN,

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 04/07/2023