Hoạt động thực hiện chính sách là tất yếu, khách quan để duy trì sự tồn tại của công cụ chính sách theo yêu cầu quản lý của nhà nước và để đạt được mục tiêu đã đề ra của chính sách.
Như vậy, thực hiện chính sách BHTN là toàn bộ quá trình hoạt động của các chủ thể thực thi chính sách để đưa chính sách BHTN vào thực tiễn nhằm hiện thực hóa mục tiêu chính sách.
1.3.2. Chủ thể thực hiện chính sách bảo hiểm thất nghiệp
Ở Việt Nam, cơ quan QLNN đối với BHTN được phân chia theo 03 cấp quản lý là cấp trung ương, cấp tỉnh và cấp huyện. Luật BHXH; Luật Việc làm 2013 và Nghị định 127/2008/NĐ-CP ngày 12/12/2008 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật BHXH về BHTN quy định:
- Ở Trung ương: Chính phủ thống nhất QLNN về BHTN, chỉ đạo xây dựng, ban hành và thực hiện văn bản quy phạm pháp luật, chế độ chính sách về BHTN. Bộ LĐTBXH chịu trách nhiệm trước Chính phủ thực hiện QLNN về BHTN. Bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn thực hiện QLNN về BHTN. Bảo hiểm xã hội Việt Nam thực hiện chức năng thu - chi, quản lý quỹ BHTN.
- Ở địa phương: Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương thực hiện QLNN về BHTN trong phạm vi địa phương. Sở LĐTBXH chịu trách nhiệm trước UBND tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương thực hiện chức năng QLNN về BHTN.
Cơ quan BHXH tỉnh thực hiện công tác tổ chức, quản lý thu BHTN: Lập dự toán thu hàng năm gửi BHXH Việt Nam, phân bổ kế hoạch thu hàng năm cho BHXH cấp huyện, hướng dẫn, chỉ đạo nghiệp vụ đối với BHXH cấp huyện, trực tiếp thu BHTN đối với các đối tượng, đơn vị tham gia BHTN bắt buộc chưa phân cấp cho BHXH cấp huyện; trực tiếp thu tiền hỗ trợ quỹ BHTN ngân sách nhà nước tỉnh, thành phố, giải quyết các trường hợp hoàn trả BHTN trên địa bàn tỉnh, thành phố.
Cơ quan BHXH cấp huyện: Quản lý, tổ chức thu BHTN bắt buộc và tự nguyện toàn huyện theo phân cấp của BHXH tỉnh; lập kế hoạch thu hàng năm gửi BHXH tỉnh; lập kế hoạch tháng, quý, triển khai đảm bảo tiến độ thu, đảm bảo hoàn thành
Có thể bạn quan tâm!
- Phương Pháp Luận Và Phương Pháp Nghiên Cứu Của Luận Văn
- Ảnh Hưởng Của Thất Nghiệp Đối Với Người Lao Động Và Gia Đình Người Lao Động
- Đối Với Sự Ổn Định Chính Trị - Xã Hội Của Đất Nước:
- Sơ Kết, Tổng Kết Thực Hiện Chính Sách Bảo Hiểm Thất Nghiệp
- Tiêu Chí Đánh Giá Kết Quả Thực Hiện Chính Sách Hỗ Trợ Hỗ Trợ Học Nghề, Tư Vấn, Giới Thiệu Việc Làm
- Tổ Chức Thực Hiện Chính Sách Đóng Bảo Hiểm Thất Nghiệp
Xem toàn bộ 128 trang tài liệu này.
kế hoạch năm; hướng dẫn, đôn đốc đối tượng tham gia BHTN; kiểm tra tình hình đăng ký tham gia BHTN của đơn vị tham gia BHTN.
Ngành LĐTBXH, cụ thể là Trung tâm DVVL trực thuộc Sở LĐTBXH là đơn vị sự nghiệp công thực hiện tiếp nhận, giải quyết hồ sơ hưởng TCTN/hỗ trợ học nghề; tư vấn, giới thiệu việc làm cho NLĐ và cung cấp thông tin thị trường lao động; đào tạo kỹ năng, đào tạo nghề cho NLĐ theo quy định của pháp luật.
Như vậy, trách nhiệm thực hiện, chức năng, nhiệm vụ QLNN đã được quy định, phân định rõ ràng cho hai ngành Lao động và BHXH và chủ thể thực hiện chính sách BHTN tại cấp tỉnh là Sở Lao động - Thương binh và Xã hội (Trung tâm Dịch vụ việc làm trực thuộc Sở LĐTBXH) và Bảo hiểm xã hội tỉnh.
1.3.3. Quy trình thực hiện chính sách bảo hiểm thất nghiệp
1.3.3.1. Lập kế hoạch thực hiện chính sách bảo hiểm thất nghiệp
Kế hoạch thực hiện chính sách BHTN là cơ sở, công cụ quan trọng triển khai đưa chính sách vào thực tiễn cuộc sống. Trong xây dựng kế hoạch thực hiện chính sách BHTN phải xác định được chính xác, cụ thể các nội dung, nhiệm vụ trong tổ chức điều hành; cung cấp các nguồn lực cho việc thực hiện chính sách; kiểm tra đôn đốc thực thi chính sách và xác định hợp lý thời gian thực hiện chính sách.
1.3.3.2. Tuyên truyền, phổ biến về chính sách bảo hiểm thất nghiệp
Đây là nội dung có ý nghĩa quan trọng trong tổ chức thực hiện chủ trương, chính sách, luật pháp và các văn bản quy phạm pháp luật về các chế độ, chính sách BHTN của Đảng và Nhà nước. Thông qua thông tin, tuyên truyền, phổ biến, giáo dục ý thức, kỷ cương tới NLĐ và NSDLĐ về các chế độ BHTN làm cho công tác thực hiện chính sách BHTN có hiệu quả cao hơn. Từ khi Quốc hội chính thức thông qua Luật BHXH năm 2006, là văn bản pháp lý cao nhất, toàn diện nhất từ trước đến nay được áp dụng cho các đối tượng tham gia bảo hiểm trong đó có chế độ bảo hiểm dành cho NLĐ bị mất việc, công tác tuyên truyền, phổ biến chính sách, pháp luật về BHTN đã được đặc biệt quan tâm ở các cấp, các ngành từ trung ương đến địa phương, đa dạng về hình thức và nội dung, tạo nhiều kênh thông tin để NLĐ, NSDLĐ có thể được tiếp cận thông tin về chính
sách BHTN. Hoạt động tuyên truyền về chính sách BHTN được thực hiện trên các phương tiện thông tin đại chúng như phát thanh, truyền hình, sách, báo in, báo điện tử, tạp chí chuyên ngành …; in ấn tờ rơi, pano, áp phích; tổ chức hội nghị tuyên truyền, đối thoại chính sách BHTN, tổ chức các cuộc thi tìm hiểu pháp luật về BHTN ... Kết quả của công tác tuyên tryền, phổ biến pháp luật đã nâng cao hiểu biết, nhận thức của NLĐ, NSDLĐ và các cơ quan, tổ chức có liên quan trong việc tổ chức thực hiện BHTN; được xã hội đánh giá đúng vai trò, vị trí và ý nghĩa của việc tham gia BHTN.
1.3.3.3. Phân công, phối hợp thực hiện chính sách bảo hiểm thất nghiệp
Chính sách BHTN thực hiện nhiều mục tiêu và có sự phân công, phối hợp thực hiện của các bộ, ngành liên quan. Theo quy định hiện hành thì việc xây dựng chế độ BHTN, quản lý BHTN do ngành LĐTBXH thực hiện. Bộ LĐTBXH thực hiện chức năng QLNN về BHTN. Cục Việc làm là đơn vị thuộc Bộ LĐTBXH có trách nhiệm giúp bộ trưởng thực hiện chức năng QLNN về BHTN. Trung tâm quốc gia về DVVL là đơn vị sự nghiệp trực thuộc Cục Việc làm có nhiệm vụ hỗ trợ, triển khai các hoạt động sự nghiệp về BHTN. Ở địa phương, Sở LĐTBXH là cơ quan tham mưu giúp UBND các tỉnh, thành phố QLNN về BHTN. Giám đốc sở ban hành các văn bản liên quan đến việc hưởng các chế độ BHTN của NLĐ; tiếp nhận và giải quyết hồ sơ đề nghị hỗ trợ và theo dõi, giám sát việc tổ chức thực hiện hỗ trợ đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao trình độ, kỹ năng nghề theo qui định ngoài ra còn có chức năng thanh tra, kiểm tra, tuyên truyền về BHTN ... Trung tâm DVVL trực thuộc Sở LĐTBXH là đơn vị sự nghiệp công thuộc sở LĐTBXH trực tiếp triển khai thực hiện chính sách BHTN trong phạm vi được phân công của ngành lao động, thương binh và xã hội. Thực hiện việc quản lý người thất nghiệp, kết nối người thất nghiệp với các doanh nghiệp có nhu cầu tuyển dụng lao động. Các cơ sở đào tạo nghề triển khai hoạt động đào tạo lại NLĐ thất nghiệp khi họ có nhu cầu.
Quản lý về thu, chi, tăng trưởng quỹ do ngành BHXH thực hiện. Việc thực hiện chi trả TCTN bằng tiền mặt hoặc qua tài khoản cá nhân do các đại lý tại xã, phường, ngân hàng thực hiện.
Như vậy, thực hiện chính sách BHTN mang tính liên ngành, có sự phân công, phối hợp của nhiều ngành, nhiều cấp cùng thực hiện. Để chính sách BHTN triển khai thực hiện có hiệu quả cao cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa các cấp, các ngành, các cơ quan từ trung ương đến địa phương trong xây dựng và tổ chức thực hiện chính sách.
1.3.3.4. Tổ chức thực hiện các chính sách cụ thể
a) Tổ chức thực hiện chính sách đóng quỹ bảo hiểm thất nghiệp
- Quản lý thu bảo hiểm thất nghiệp bao gồm:
+ Quản lý mức đóng: Cơ quan BHXH căn cứ vào quy định của nhà nước về mức tiền lương, tiền công, hồ sơ của đơn vị và người tham gia để xác định đối tượng, tiền lương, mức đóng, số tiền phải đóng BHTN đối với người tham gia và đơn vị.
+ Quản lý các khoản thu hợp pháp khác như tiền lãi thu được từ hoạt động đầu tư từ quỹ BHTN; tiền lãi chậm đóng BHTN theo quy định và các khoản thu hợp pháp khác theo quy định của pháp luật.
+ Quản lý người tham gia: Người lao động, NSDLĐ và phần đóng góp của nhà nước. Công tác quản lý NLĐ có liên quan đến các vấn đề như đăng ký thất nghiệp; thống kê, phân loại thất nghiệp đòi hỏi phải chính xác, đầy đủ, kịp thời để bảo đảm hiệu quả QLNN đối với BHTN.
+ Quản lý thu từ người lao động: Cơ quan BHXH thống kê, quản lý, theo dõi số đơn vị sử dụng lao động và số lao động cũng như quỹ tiền lương của từng đơn vị sử dụng lao động trên địa bàn, thông báo, hướng dẫn đơn vị kịp thời đăng ký tham gia, đóng đủ BHTN cho NLĐ theo quy định của pháp luật. Cơ quan BHXH tỉnh, huyện phải theo dõi, quản lý chặt chẽ quá trình tham gia BHTN của NLĐ trong từng đơn vị gắn liền với số lao động và quỹ tiền lương tham gia BHTN của từng đơn vị cụ thể. Xác định rõ đối tượng tham gia BHTN để thu đúng, thu đủ bảo đảm nghĩa vụ và quyền lợi của NLĐ và đơn vị sử dụng lao động.
+ Quản lý thu từ cá nhân: Theo quy định hiện hành NLĐ tham gia BHTN khi làm việc theo HĐLĐ hoặc hợp đồng làm việc, chưa có quy định đóng góp BHTN tự
nguyện. NLĐ không tự đóng BHTN cho mình được mà phải thông qua NSDLĐ. Vì vậy, quản lý thu từ cá nhân NLĐ thuộc đối tượng tham gia BHTN vẫn phải thông qua NSDLĐ.
+ Quản lý thu từ ngân sách: Ngân sách nhà nước hỗ trợ quỹ BHTN theo nguyên tắc bảo đảm duy trì số dư quỹ hàng năm bằng hai lần tổng các khoản chi các chế độ BHTN và chi phí quản lý BHTN của năm trước liền kề nhưng mức hỗ trợ tối đa bằng 1% quỹ tiền lương tháng đóng BHTN của NLĐ đang tham gia BHTN. Nguồn kinh phí hỗ trợ quỹ BHTN do ngân sách trung ương bảo đảm từ nguồn chi đảm bảo xã hội đã được Quốc hội quyết định. Việc trích hỗ trợ quỹ BHTN hàng năm giúp cơ quan có thẩm quyền của nhà nước xác định được mức chi để thực hiện tốt cân đối thu, chi hàng năm cho ngân sách nhà nước.
- Phương thức đóng bảo hiểm thất nghiệp:
Hàng tháng, chậm nhất đến ngày cuối cùng của tháng, NSDLĐ trích tiền đóng BHTN trên quỹ lương tháng của NLĐ tham gia BHTN đồng thời trích từ tiền lương tháng đóng BHTN của từng NLĐ theo mức quy định, chuyển cùng một lúc vào tài khoản chuyên thu của BHXH mở tại ngân hàng hoặc kho bạc nhà nước. Doanh nghiệp, hợp tác xã, hộ kinh doanh cá thể, tổ hợp tác hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp, diêm nghiệp trả lương theo sản phẩm theo khoán thì có thể đóng theo phương thức hàng tháng hoặc 03 tháng, 06 tháng một lần. Chậm nhất đến ngày cuối cùng của phương thức đóng, NSDLĐ phải chuyển đủ tiền vào quỹ BHTN. NSDLĐ tham gia BHTN đóng trụ sở chính ở địa bàn nào thì đăng ký tham gia đóng BHTN tại địa bàn đó theo phân cấp của cơ quan BHXH. Trường hợp đơn vị không đủ tư cách pháp nhân, không có tài khoản, con dấu riêng thì đóng theo đơn vị quản lý cấp trên.
Hàng năm, cơ quan BHXH căn cứ dự toán thu, chi BHTN được cấp có thẩm quyền giao trong năm để xác định số kinh phí hỗ trợ quỹ BHTN của năm trước theo mức quy định gửi Bộ Tài chính thẩm định, xác định số kinh phí hỗ trợ quỹ BHTN năm trước. Trường hợp số kinh phí đã cấp lớn hơn số phải hỗ trợ, cơ quan BHXH có trách nhiệm nộp trả ngân sách nhà nước phần chênh lệch; trường hợp số đã cấp
nhỏ hơn số phải hỗ trợ, Bộ Tài chính báo cáo cấp có thẩm quyền phê duyệt cấp hỗ trợ bổ sung vào năm sau.
b) Tổ chức thực hiện chính sách trợ cấp thất nghiệp
Theo quy định tại Nghị định số 28/2015/NĐ-CP của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Việc làm 2013 về BHTN và Nghị định số 61/2020/NĐ- CP về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 28/2015/NĐ-CP thì NLĐ phải có đề nghị hưởng TCTN kèm theo văn bản xác nhận việc chấm dứt HĐLĐ hoặc hợp đồng làm việc. Đồng thời phải xuất trình sổ BHXH có xác nhận của cơ quan BHXH về việc đóng BHTN hoặc văn bản xác nhận của cơ quan BHXH về việc đóng BHTN. Người lao động thất nghiệp phải nộp đủ hồ sơ đề nghị hưởng TCTN cho Trung tâm DVVL địa phương nơi NLĐ muốn nhận TCTN. Trung tâm có trách nhiệm tiếp nhận, kiểm tra hồ sơ, ghi phiếu hẹn trả kết quả. Nếu hồ sơ không đúng quy định, không đủ điều kiện hưởng TCTN sẽ bị trả lại và nêu rõ lý do. Đối với hồ sơ đủ điều kiện hưởng, trong thời hạn 20 ngày kể từ ngày nhận đủ hồ sơ, Trung tâm DVVL có trách nhiệm xem xét, trình Giám đốc Sở LĐTBXH ra quyết định việc hưởng TCTN. Người lao động chưa tìm được việc làm trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nộp hồ sơ được Giám đốc Sở LĐTBXH quyết định hưởng TCTN thì Trung tâm xác nhận vào sổ BHXH về việc đã giải quyết hưởng TCTN và gửi lại cho NLĐ cùng với quyết định hưởng TCTN.
Cơ quan BHXH chi trả TCTN tháng đầu trong 05 ngày làm việc kể từ ngày nhận được quyết định hưởng TCTN. Từ tháng thứ 2 trở đi TCTN được trả trong 05 ngày làm việc, tính từ ngày thứ 07 của tháng hưởng TCTN đó nếu không nhận được quyết định tạm dừng hoặc chấm dứt hưởng TCTN. Theo đề nghị của NLĐ về nơi lĩnh, BHXH cấp tỉnh, huyện thực hiện chi trả trực tiếp hoặc hợp đồng với đơn vị đại diện chi trả để chi trả TCTN cho NLĐ hưởng TCTN. Hàng tháng, NLĐ phải trực tiếp thông báo với Trung tâm DVVL nơi đang hưởng trợ cấp về việc tìm kiếm việc làm.
Kiểm tra, giám sát quy trình giải quyết, chi trả: Bảo hiểm xã hội cấp tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương có trách nhiệm hướng dẫn, kiểm tra, giám sát quá
trình giải quyết, chi trả và quản lý người hưởng của cơ quan BHXH cấp huyện, cơ quan đại diện chi trả (Bưu điện), đơn vị sử dụng lao động, cá nhân, tổ chức liên quan và người hưởng theo quy định. Trường hợp cơ quan có thẩm quyền có kết luận về hành vi gian dối, làm giả hồ sơ, tài liệu, trục lợi về BHTN hoặc không thực hiện về việc khai báo định kỳ ... cơ quan BHXH căn cứ kết luận của cơ quan có thẩm quyền từ chối việc chi trả TCTN cho người thất nghiệp hoặc thu hồi theo quyết định của cơ quan có thẩm quyền.
Xây dựng hệ thống dữ liệu thông tin đăng ký thất nghiệp: Xây dựng hệ thống thông tin đăng ký thất nghiệp đầy đủ để quản lý người hưởng TCTN. Hệ thống dữ liệu thông tin đăng ký thất nghiệp phải được kết nối, chia sẻ cơ sở dữ liệu với các hệ thống phần mềm của BHXH, thuế, tài chính ... để thuận lợi cho công tác kiểm tra, rà soát bảo đảm việc hưởng TCTN và các trợ cấp BHXH khác không bị trùng lặp. Xây dựng được hệ thống dữ liệu thông tin về đăng ký thất nghiệp sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho công tác quản lý chi TCTN khi NLĐ có thể đăng ký nơi nhận TCTN ở bất cứ nơi nào mà họ có nhu cầu theo quy định mới.
c) Tổ chức thực hiện chính sách hỗ trợ học nghề
Người lao động đáp ứng đủ điều kiện theo quy định tại Điều 55 Luật Việc làm 2013 có nhu cầu học nghề được hỗ trợ 01 lần để học 01 nghề tại cơ sở đào tạo theo quy định của pháp luật về dạy nghề. Hiện nay, Luật Việc làm 2013 và các văn bản hướng dẫn không quy định cụ thể nghề được hỗ trợ mà chỉ quy định về các điều kiện được hỗ trợ, mức hỗ trợ, thời gian hỗ trợ học nghề và trình tự, thủ tục tổ chức thực hiện hỗ trợ học nghề cho NLĐ tham gia BHTN. Do đó bất kể nghề nào thuộc danh mục nghề theo quy định của pháp luật về giáo dục nghề nghiệp thì NLĐ đều được hỗ trợ nếu đáp ứng đủ các điều kiện theo quy định.
Hồ sơ đề nghị học nghề của NLĐ đủ điều kiện hưởng chính sách hỗ trợ học nghề đang chờ kết quả giải quyết hưởng TCTN hoặc đang hưởng TCTN có nhu cầu học nghề tại địa phương nơi đang chờ kết quả hoặc đang hưởng TCTN là đề nghị hỗ trợ học nghề. Đối với NLĐ đang hưởng TCTN mà có nhu cầu học nghề tại địa phương không phải nơi đang hưởng TCTN gồm: Đề nghị hỗ trợ học nghề; quyết
định hưởng TCTN. Người lao động không thuộc hai trường hợp trên, hồ sơ gồm: Đề nghị hưởng TCTN; đề nghị hỗ trợ học nghề; bản chính hoặc bản sao có chứng thực Bản chính hoặc bản sao có chứng thực hoặc bản sao kèm theo bản chính để đối chiếu của một trong các giấy tờ theo quy định tại khoản 2, Điều 16, Nghị định 28/2015/NĐ-CP đã được sửa đổi, bổ sung tại Khoản 6, Điều 1, Nghị định 61/2020/NĐ-CP; sổ BHXH. Hồ sơ đề nghị hỗ trợ học nghề của NLĐ được nộp tại Trung tâm DVVL. Trường hợp NLĐ bị thất nghiệp đã có thời gian đóng BHTN từ đủ 09 tháng trở lên nhưng không thuộc diện hưởng TCTN nộp hồ sơ cho Trung tâm DVVL nơi NLĐ có nhu cầu học nghề. Trong thời hạn 20 ngày kể từ ngày nhận đủ hồ sơ đề nghị hỗ trợ học nghề, Trung tâm DVVL có trách nhiệm xem xét hồ sơ đề nghị hỗ trợ học nghề của NLĐ để xác định cụ thể về nghề, thời gian học nghề, thời điểm bắt đầu học nghề, mức hỗ trợ học nghề, cơ sở đào tạo nghề để trình Giám đốc sở LĐTBXH quyết định về việc hỗ trợ học nghề.
Thời điểm học nghề của NLĐ bắt đầu sau khi ban hành quyết định về việc hỗ trợ học nghề nhưng không quá 03 tháng kể từ ngày NLĐ hết thời hạn hưởng TCTN. Người lao động được coi như không có nhu cầu hỗ trợ học nghề nếu sau 02 ngày làm việc kể từ ngày ghi trong phiếu hẹn trả kết quả, không đến nhận quyết định về việc hỗ trợ học nghề. Trong thời hạn 02 ngày làm việc kể từ ngày hết hạn nhận quyết định hỗ trợ học nghề, NLĐ vẫn được nhận hoặc ủy quyền cho người khác nhận quyết định hỗ trợ học nghề nếu thuộc các trường hợp sau: Ốm đau, thai sản có xác nhận của cơ sở y tế có thẩm quyền hoặc các trường hợp bất khả kháng khác như hỏa hoạn, lũ lụt, động đất, sóng thần, địch họa, dịch bệnh (có xác nhận của UBND cấp xã), hoặc trường hợp bị tai nạn (có xác nhận của cảnh sát giao thông hoặc cơ sở y tế). Trong thời hạn 07 ngày làm việc kể từ ngày NLĐ không đến nhận quyết định về việc hỗ trợ học nghề, Trung tâm DVVL trình Giám đốc sở LĐTBXH quyết định về việc hủy quyết định hỗ trợ học nghề của NLĐ và gửi cho cơ quan BHXH để không thực hiện chi trả tiền hỗ trợ học nghề cho cơ sở dạy nghề; gửi cơ sở dạy nghề để không thực hiện việc dạy nghề cho NLĐ và gửi cho NLĐ.