Xuất Khẩu Dầu Thô Của Các Nước Opec Những Năm 2000-2007

Châu Phi, 28/5/2008 Indonesia đã tuyên bố rút khỏi OPEC khi hết hạn tư cách thành viên vào cuối năm.

b) Vai trò của OPEC trong xuất khẩu dầu thô trên thế giới

Bảng 1.9 dưới đây cho thấy tình hình xuất khẩu dầu thô của OPEC giai đoạn từ 2000-2007:

Bảng 1.9. Xuất khẩu dầu thô của các nước OPEC những năm 2000-2007

(Đơn vị tính: triệu thùng/ngày)



2000

2001

2002

2003

2004

2005

2006

2007

Algeria

0,46

0,44

0,56

0,74

0,89

0,97

0,94

1,25

Angola

0,74

0,69

0,84

0,82

0,94

0,95

1,01

1,15

Ecuador

0,25

0,26

0,24

0,27

0,37

0,38

0,37

0,34

Indonesia

0,62

0,60

0,64

0,43

0,41

0,37

0,30

0,32

Iran

2,49

2,18

2,09

2,39

2,68

2,39

2,37

2,46

Iraq

2,03

1,71

1,49

0,38

1,45

1,47

1,46

1,64

Kuwait

1,23

1,21

1,13

1,24

1,41

1,65

1,72

1,61

Lybian

1,00

0,98

0,98

1,12

1,28

1,30

1,42

1,37

Nigeria

1,98

2,01

1,79

2,16

2,35

2,32

2,24

2,14

Qatar

0,61

0,60

0,56

0,54

0,54

0,67

0,62

0,61

Ả Rập Saudi

6,25

6,03

5,28

6,52

6,81

7,20

7,02

6,96

Các tiểu vương

quốc Ả Rập

1,81

1,78

1,61

2,04

2,17

2,19

2,42

2,34

Venezuela

2,00

1,96

1,57

1,53

1,56

1,78

1,92

2,11

OPEC

21,52

20,49

18,84

20,22

22,90

23,69

23,86

24,35

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 111 trang tài liệu này.

Thị trường dầu thô thế giới và chiến lược marketing trong kinh doanh xuất khẩu nhập khẩu dầu thô của Việt Nam - 3

Nguồn: Annual Statistical Bullentin 2007 Năm 2007, lượng xuất khẩu của OPEC đạt 24,35 triệu thùng/ngày chiếm hơn ½ tổng xuất khẩu dầu thô toàn cầu, nếu so với năm 2000 thì vẫn

tăng tuyệt đối nhưng lại giảm về tương đối (tỷ trọng).

Hiện nay OPEC chiếm tới hơn 40% sản xuất và hơn 50% xuất khẩu dầu thô của thế giới. Hơn nữa, quan hệ cung cầu dầu thô lại đang có nhiều lợi thế cho nhà cung cấp.

Một khi có mục tiêu chiến lược đúng đắn và sự đoàn kết nhất trí trong nội bộ các thành viên, OPEC càng củng cố vững chắc hơn vai trò quyết định cung cầu và biến động giá cả trên thị trường dầu thô thế giới nhằm đảm bảo hiệu quả cho việc nâng cao hiệu quả xuất khẩu của mình.

1.1.4. Tình hình giá cả dầu thô thế giới thời gian gần đây

Giá dầu thô biến động theo sát tình hình kinh tế thế giới, đồng thời còn chịu ảnh hưởng của các yếu tố chính trị, thời tiết, khí hậu, đầu cơ, chiến tranh, xung đột xã hội…

Nhìn chung, từ năm 2000 đến nay, giá dầu không còn ổn định như trước nữa. Năm 2008 là năm điển hình của sự bất ổn, mức biến động giá dầu lớn và đạt kỷ lục chỉ trong một thời gian ngắn. Biểu đồ giá dầu thế giới 2008 có hình chóp nhọn, thể hiện thị trường dầu thế giới 2008 theo hai giai đoạn: trước và sau ngày 11/7 – thời điểm giá dầu thô ngọt nhẹ tại thị trường New York đạt đỉnh 147,27 USD/thùng. [14]

Sau khi tăng liên tục từ giữa năm 2007, giá dầu vào đầu năm 2008 tăng quá mốc 100 USD/thùng – mốc giá cao nhất kể từ năm 1983 đến nay. Kể từ đó, giá dầu liên tiếp tăng đến đỉnh (147,27 USD/thùng) nhưng ngay sau ngày lập đỉnh, giá dầu thế giới lại bắt đầu một quá trình giảm mạnh; chỉ trong vòng khoảng 4 tháng, giá dầu đã giảm đi tới 100 USD/thùng tương đương hơn 70%.

Khi giá dầu giảm xuống dưới mức 100 USD/thùng hồi đầu tháng 9 năm 2008, OPEC đã tìm cách giữ giá dầu ở mức 75 USD/thùng. Tuy nhiên, sang đầu tháng 12, giá dầu chỉ còn 40 USD/thùng. OPEC dường như đang bó tay trong việc ngăn đà giảm của giá dầu.

Cùng với khủng hoảng tài chính, giá dầu giảm mạnh đang trở thành yếu tố xấu đối với kinh tế nhiều nước.

1.1.5. Dự báo thị trường dầu thô thế giới trong những năm tới

Theo nguyên lý cơ bản của Marketing, mọi hoạt động kinh doanh đều phải xuất phát từ nhu cầu thị trường. Muốn thành công, doanh nghiệp phải đi

tìm nhu cầu và thỏa mãn tốt nhất nhu cầu đó của thị trường. Chính vì vậy, nhất thiết cần phải dự báo cho được xu hướng vận động của thị trường dầu thô trong tương lai để có cơ sở cho việc xây dựng định hướng và giải pháp xuất khẩu dầu thô.

Trong những năm tiếp theo, dưới ảnh hưởng của khủng hoảng tài chính toàn cầu, cầu về dầu thô được dự đoán là sẽ tiếp tục giảm song không có gì là đảm bảo cho những dự đoán này. Dự báo thị trường giá cả thực sự không đơn giản nói chung và dự báo giá dầu càng không đơn giản nói riêng, đặc biệt là sau những biến động trong năm 2008. Đã có nhiều dự báo giá dầu nhưng không đạt độ chính xác mong muốn. Dường như các chuyên gia dự báo giá dầu vẫn chưa tiếp cận được đầy đủ thực tiễn biến động phong phú với quá nhiều đột biến tưởng chừng không theo quy luật nào cả trên thị trường giá cả dầu.

Tuy nhiên có thể nhấn mạnh 3 điểm cơ bản sau:

- Dầu thô trước hết là hàng tư liệu sản xuất, đồng thời cũng là hàng tư liệu tiêu dùng, là tài nguyên quý thuộc nhu cầu tối thiết của tất cả các nước trên thế giới trong nền kinh tế dầu.

- Thị trường giá cả dầu thô chịu tác động của rất nhiều yếu tố: kinh tế, kỹ thuật, thời tiết, môi trường, xã hội, đặc biệt là yếu tố chính trị, cho nên là thị trường siêu nhạy cảm.‌

- Trong tương lai, quan hệ biến động cung cầu và giá cả của thị trường dầu thô vẫn sẽ vận động theo xu hướng tăng, có lợi cho nhà xuất khẩu.

1.2. LÝ LUẬN CHUNG VỀ CHIẾN LƯỢC MARKETING TRONG HOẠT ĐỘNG KINH DOANH XUẤT NHẬP KHẨU

1.2.1. Một số khái niệm cơ bản

1.2.1.1. Khái niệm Marketing và Marketing trong kinh doanh xuất khẩu

a) Khái niệm về Marketing

Hiện nay trong các tác phẩm về marketing trên thế giới, có đến 2000 định nghĩa Marketing. Tuy nhiên, các định nghĩa ấy về thực chất không khác


15

nhau lắm và điều lý thú là chưa có định nghĩa nào được coi là duy nhất đúng, bởi lẽ các tác giả của các định nghĩa về marketing đều có quan điểm riêng của mình. Có thể nêu ra một vài định nghĩa của những tổ chức và cá nhân tiêu biểu: [6]

- Theo Hiệp hội Marketing Mỹ: “Marketing là tiến hành các hoạt động kinh doanh có liên quan trực tiếp đến dòng vận chuyển hàng hóa và dịch vụ từ người sản xuất đến người tiêu dùng”.

- Theo Viện Marketing của Anh: “Marketing là quá trình tổ chức và quản lý toàn bộ các hoạt động sản xuất kinh doanh, từ việc phát hiện ra sức mua và biến sức mua của người tiêu dùng thành nhu cầu thực sự về một mặt hàng cụ thể, đến việc sản xuất và đưa hàng đến người tiêu dùng cuối cùng, nhằm đảm bảo cho công ty thu được lợi nhuận dự kiến”.

- Theo Giáo sư Mỹ Philip Kotler: “Marketing – đó là một hình thức hoạt động của con người hướng vào việc đáp ứng nhu cầu thông qua trao đổi”.

- Một công ty của Anh quốc đã định nghĩa: “Marketing – đó là quy trình công nghệ giúp cho công ty thỏa mãn được nhu cầu của người tiêu dùng và thu được lợi nhuận mong muốn”.

- Năm 1957, John Mekeherick, lúc đó là chủ tịch công ty General Electric đã coi Marketing như một triết lý kinh doanh mà tiêu điểm của nó là người tiêu dùng và lợi nhuận.

Như vậy, có thể nói, Marketing là bán cái thị trường cần, chứ không phải bán cái mình có.

b) Khái niệm và bản chất của Marketing quốc tế trong kinh doanh xuất khẩu

Về Marketing quốc tế, có nhiều khái niệm khác nhau. Theo Gerald Albaum, Marketing quốc tế là một hoạt động kinh doanh bao gồm việc lập kế hoạch, xúc tiến, phân phối và quyết định giá những hàng hóa và dịch vụ để thỏa mãn những mong muốn của các trung gian và người tiêu dùng cuối cùng ngoài biên giới quốc gia. Còn Joel Revans thì cho rằng Marketing quốc tế là

Marketing về hàng hóa và dịch vụ ở bên ngoài biên giới quốc gia của doanh nghiệp. Đối với Ld. Dahringer, Marketing quốc tế là sự áp dụng cùng một chiến lược Marketing hỗn hợp trên phạm vi hơn một thị trường quốc gia. Một định nghĩa khác về Marketing quốc tế là hoạt động Marketing vượt qua phạm vi biên giới của từng quốc gia cụ thể.

Những định nghĩa và khái niệm trên đây về Marketing quốc tế đều có một điểm chung là khẳng định sự giống nhau về nguyên tắc, quy trình và nội dung cơ bản của Marketing nội địa và Marketing quốc tế, đồng thời chỉ rõ sự khác biệt cơ bản về phạm vi và môi trường mà ở đó chúng được áp dụng.

Marketing quốc tế bao gồm những hoạt động như nghiên cứu, phân tích và dự báo thị trường nước ngoài; làm sao thích ứng cung với cầu của thị trường; tác động đến nhu cầu và mong muốn của thị trường mục tiêu.

Trong hoạt động xuất khẩu, khái niệm về Marketing quốc tế được hiểu với nghĩa hẹp hơn theo Marketing xuất khẩu. Có thể nói, Marketing xuất khẩu là sự phát triển chuyên sâu của Marketing quốc tế trong lĩnh vực xuất khẩu.

Marketing xuất khẩu là tiến trình kế hoạch và phối hợp thành công các yếu tố: sản phẩm, giá cả, phân phối và xúc tiến để đưa hàng hóa, dịch vụ từ nhà sản xuất đến thị trường thế giới nhằm đạt được mục tiêu của doanh nghiệp xuất khẩu.

Từ những khái niệm về Marketing và Marketing xuất khẩu, chúng ta có thể rút ra bản chất của Marketing xuất khẩu như sau: [16]

Một là, Marketing xuất khẩu đáp ứng những nhu cầu của người tiêu dùng nước ngoài.

Hai là, các hoạt động Marketing xuất khẩu đều hướng đến khách hàng nước ngoài, cho nên khi ứng dụng Marketing xuất khẩu phải bắt đầu từ nghiên cứu môi trường thị trường nước ngoài để từ đó xây dựng chiến lược Marketing xuất khẩu thích hợp.

Ba là, môi trường hoạt động của Marketing xuất khẩu ở từng nước khác nhau nên không thể áp dụng toàn bộ chiến lược Marketing ở thị trường trong nước cho thị trường nước ngoài mà phải thích ứng phù hợp với từng khu vực thị trường nhất định.

Bốn là, Marketing xuất khẩu nhấn mạnh đến hoạt động thâm nhập vững chắc vào thị trường thế giới bằng các chiến lược sản phẩm bền vững, chiến lược giá, phân phối và xúc tiến. Qua đó các hoạt động xuất khẩu ngày càng phát triển trên thị trường thế giới và đạt được mục tiêu đề ra.

Nếu như Marketing xuất khẩu trở nên cần thiết với tất cả các quốc gia, các công ty, hoạt động của Marketing xuất khẩu cũng chịu tác động của nhiều nhân tố khác như thị trường và môi trường của nó; lĩnh vực sản xuất; chiến lược xuất khẩu của quốc gia hay công ty với hai vấn đề trọng yếu khác là lựa chọn thị trường và đánh giá mức độ thích ứng của sản phẩm.

1.2.1.2. Khái niệm chiến lược Marketing và chiến lược Marketing xuất khẩu

a) Chiến lược Marketing

Chiến lược là tổng thể các quyết định, các hành động liên quan đến việc lựa chọn các phương tiện và phân bổ nguồn lực nhằm đạt được một mục tiêu nhất định. Chiến lược cũng có thể được định nghĩa thông qua một loạt các nhân tố như là các nhiệm vụ, việc lựa chọn các lĩnh vực hoạt động, sự bổ sung giữa các nguồn lực, các phương tiên hoạt động và chiến thuật, các ưu tiên và sự chuẩn bị cho các tình huống bất ngờ nhằm hoàn thành các nhiệm vụ đề ra.

Có ba cấp độ chiến lược là chiến lược cấp công ty, chiến lược cấp đơn vị kinh doanh và chiến lược chức năng. Chiến lược Marketing là chiến lược chức năng.

Chiến lược Marketing là một hệ thống luận điểm logic, hợp lý, làm căn cứ chỉ đạo một đơn vị tổ chức, tính toán cách giải quyết những nhiệm vụ

Marketing của mình. Nó bao gồm những chiến lược cụ thể đối với các thị trương mục tiêu, đối với phức hệ Marketing và mức chi phí cho Marketing.

Mục tiêu hàng đầu của chiến lược Marketing là phân bổ có hiệu quả, phối hợp các nguồn lực Marketing và các hoạt động để hoàn thành mục tiêu trong thị trường – sản phẩm cụ thể. Do vậy, những quyết định về phạm vi chiến lược Marketing liên quan đến xác định phân đoạn thị trường mục tiêu, dòng sản phẩm cung, Kế đến là xác định lợi thế cạnh tranh và nguồn lực thông qua chương trình Marketing hỗn hợp (sản phẩm, giá cả, phân phối, xúc tiến) được thiết kế cho phù hợp với nhu cầu của khách hàng ở thị trường mục tiêu. [9]

b) Chiến lược Marketing xuất khẩu

Các doanh nghiệp ngoại thương phải lập chiến lược Marketing xuất khẩu cho sản phẩm thâm nhập thị trường nước ngoài. Quá trình hình thành, thực hiện và kiểm tra chiến lược Marketing xuất khẩu cũng tuân thủ các bước[16]:

Hoạch định chiến lược Marketing xuất khẩu:

Trên cơ sở phân tích môi trường bên trong, bên ngoài mà hoạch định chiến lược Marketing xuất khẩu cho sản phẩm phù hợp với từng thị trường mục tiêu đã chọn, cụ thể là:

- Trước hết, đánh giá và chọn thị trường mục tiêu xuất khẩu

- Kế đến, hoạch định phương thức thâm nhập thị trường mục tiêu đó.

- Sau cùng, hoạch định chiến lược Marketing hỗn hợp cho sản phẩm xuất khẩu (sản phẩm, định giá, phân phối, xúc tiến).

Thực hiện và kiểm tra chiến lược Marketing xuất khẩu:

- Trên cơ sở chiến lược Marketing xuất khẩu được đề ra, các doanh nghiệp tiến hành tổ chức thực hiện chiến lược thông qua các nguồn lực.

- Kiểm tra chiến lược Marketing xuất khẩu nhằm đánh giá những việc đã làm được và chưa làm được của chiến lược, có đạt mục tiêu đề ra hay không, từ đó rút ra bài học kinh nghiệm cho thời gian tới.

1.2.2. Các bước xây dựng chiến lược Marketing xuất khẩu

1.2.2.1. Nghiên cứu thị trường

Để hoạt động xuất khẩu thành công, công ty cần phải xác định thị trường nào là thị trường xuất khẩu hấp dẫn và đánh giá được tiềm năng xuất khẩu của từng sản phẩm của công ty vào những thị trường đó một cách càng chính xác càng tốt. Do vậy việc nghiên cứu và dự báo thị trường là vô cùng cần thiết và quan trọng. Công ty cần đánh giá được quy mô và tầm cỡ của thị trường, đặc trưng của cầu, nhu cầu của người tiêu dùng ở thị trường đó, các kênh thương mại cũng như sự khác biệt về văn hóa, xã hội ảnh hưởng đến công việc kinh doanh của công ty mình.

Quá trình nghiên cứu thị trường bao gồm các bước: [16]

Hình thành những vấn đề cần nghiên cứu:

Đây là bước cốt lõi và quan trọng nhất trong quá trính nghiên cứu thị trường. Các nhà làm công tác nghiên cứu thị trường cần hiểu được cội nguồn và gốc rễ của các vấn đề quản lý, biến nó thành những vấn đề cần nghiên cứu, những thông tin cần thu thập để giúp giải quyết vấn đề quản lý.

Phương pháp nghiên cứu

Sử dụng phương pháp nghiên cứu nào còn phụ thuộc vào bản chất của vấn đề cần nghiên cứu và mức độ hiểu biết của người làm công tác nghiên cứu. Có hai phương pháp nghiên cứu có thể sử dụng để trả lời bất kỳ vấn đề nào cần nghiên cứu: phương pháp nghiên cứu thực nghiệm và phương pháp nghiên cứu phi thực nghiệm. Sự khác biệt chính của hai phương pháp này là ở chỗ phương pháp thực nghiệm cần phải có sự can thiệp của người làm công tác nghiên cứu bằng cách khống chế những biến số không liên quan và điều khiển ít nhất một biến số còn phương pháp phi thực nghiệm thì không cần có

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 11/09/2022