Thi pháp truyện ngắn Việt Nam thời kỳ hậu chiến 1975 – 1985 - 1


VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM

HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI


ĐOÀN VŨ CÔNG HOÀI


THI PHÁP TRUYỆN NGẮN VIỆT NAM THỜI KỲ HẬU CHIẾN (1975 – 1985)


LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HỌC


Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 200 trang tài liệu này.

Hà Nội – 2017

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM

Thi pháp truyện ngắn Việt Nam thời kỳ hậu chiến 1975 – 1985 - 1

HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI


ĐOÀN VŨ CÔNG HOÀI


THI PHÁP TRUYỆN NGẮN VIỆT NAM THỜI KỲ HẬU CHIẾN (1975 – 1985)


Chuyên ngành Văn học Việt Nam Mã số: 62.22.01.21


LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HỌC


Người hướng dẫn khoa học

PGS.TS. Tôn Thảo Miên


Hà Nội – 2017

LỜI CAM ĐOAN


Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các tài liệu, những kết luận, nhận định trong luận án là trung thực và chưa được công bố trong bất kỳ một công trình nào khác.


Hà Nội, ngày 19 tháng 07 năm 2017

Tác giả luận án


Đoàn Vũ Công Hoài


Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục

MỤC LỤC


Trang

MỞ ĐẦU 1

1. Tính cấp thiết của đề tài 1

2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 4

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 5

4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu 5

5. Đóng góp về khoa học của luận án 6

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án 7

7. Cơ cấu của luận án 7

Chương 1: Tổng quan về vấn đề nghiên cứu 8

1.1. Những nghiên cứu lý thuyết về thi pháp và thi pháp truyện ngắn 8

1.2. Những nghiên cứu về thi pháp truyện ngắn VN giai đoạn 1975-1985 24

Chương 2: Truyện ngắn Việt Nam 1975-1985, bước chuyển đổi quan niệm nghệ thuật về con người 36

2.1. Bối cảnh lịch sử xã hội và văn học nghệ thuật sau năm 1975 36

2.2. Quan niệm nghệ thuật về con người 51

Chương 3: Thời gian và không gian, giọng điệu và ngôn ngữ trong truyện ngắn Việt Nam giai đoạn 1975 – 1985 73

3.1. Thời gian và không gian nghệ thuật 73

3.2. Giọng điệu và ngôn ngữ 93

Chương 4: Truyện ngắn Việt Nam giai đoạn 1975 – 1985 trên bình diện thi pháp thể hiện 116

4.1. Thi pháp cốt truyện, tình huống 116

4.2. Thi pháp kết cấu, trần thuật 138

KẾT LUẬN 163

DANH MỤC CÔNG TRÌNH CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ 167

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 168

PHỤ LỤC: TÁC PHẨM KHẢO SÁT TRONG LUẬN ÁN 184

MỞ ĐẦU


1. Tính cấp thiết của đề tài

1.1. Thi pháp học là một trong những đường hướng nghiên cứu văn học có từ lâu, nhưng nó thực sự được các nhà nghiên cứu quan tâm vào những năm đầu của thế kỷ XX. Người ta căn cứ vào ngôn ngữ để cắt nghĩa thế giới tinh thần của nhà văn. Từ đó, trích đoạn để phân tích, so sánh, chỉ ra cách cảm nhận về tư tưởng thẩm mĩ trên ba phương diện: không gian, thời gian nghệ thuật và phương thức biểu hiện. Bởi nghệ thuật là một thế giới chủ quan của người nghệ sĩ. Nó kết tinh cách nhìn, cách nghĩ của nhà văn về thế giới. Vì vậy, đối tượng nghiên cứu của văn học là chỉ ra ý thức của chủ thể nghệ thuật, các phạm trù của thế giới khách quan và chủ quan như một phương cách nhìn ra thế giới. Cách tiếp cận thi pháp học cho phép người ta khám phá ra các chiều kích khác nhau như: hình tượng tác giả, phong cách nghệ thuật trong chỉnh thể nghệ thuật của tác phẩm.

Ở Việt Nam thi pháp học du nhập vào một số trường đại học ở miền Nam trước năm 1975. Tuy nhiên, hướng nghiên cứu này mới chỉ được giới thiệu, tiếp nhận theo hướng thi pháp xã hội học. Vào những năm 80, thi pháp học bắt đầu có sự du nhập, đổi mới mạnh mẽ với các khuynh hướng ngôn ngữ học, kí hiệu học, cấu trúc luận, phân tâm học, phong cách học, thi pháp học lịch sử, tự sự học… Điều này thể hiện rò trong các công trình nghiên cứu của Hoàng Trinh, Phan Ngọc, Nguyễn Đăng Mạnh, Trần Đình Sử, Nguyễn Phan Cảnh, Đỗ Đức Hiểu, Lại Nguyên Ân, Lê Ngọc Trà, Đỗ Lai Thuý, Nguyễn Xuân Kính, Vương Trí Nhàn… Đây được coi như là hiện tượng mới của nghiên cứu văn học.

1.2. Sau 1975, tình hình đất nước đã có nhiều biến đổi, đời sống xã hội chuyển từ chiến tranh sang hoà bình. Cuộc sống mới hiện ra với tất cả những bộn bề, phức tạp của nó. Đây là thời kỳ giao thoa giữa cái cũ và cái

mới, cái cũ vẫn chưa mất đi, cái mới manh nha hình thành. Những khó khăn sau giải phóng và khủng hoảng kinh tế xã hội cuối thập niên 70, cho thấy tính chất phức tạp và sự chi phối của nền kinh tế bao cấp đưa đến sự phân cực giữa trắng - đen, thiện - ác, tốt - xấu…; cơ chế quan liêu bao cấp hiện ra ngày càng rò. Tất cả những điều trên đã tác động không nhỏ đến đời sống văn học, tạo ra những đề tài nóng bỏng cho nhà văn khai vỡ, phát triển theo quy luật mới, quy luật đời thường. Nhà văn Nguyễn Minh Châu nhận định khái quát về bức tranh xã hội Việt Nam những năm sau chiến tranh đang diễn ra “một cuộc đối chứng giữa nhân cách và phi nhân cách, giữa hoàn thiện và chưa hoàn thiện, giữa ánh sáng và những khoảng bóng tối còn rơi rớt bên trong tâm hồn của mỗi con người” [30, 364].

Đại hội Đảng lần thứ VI (1986) đã mở đường cho nền kinh tế bao cấp chuyển sang cá thể, cơ chế thị trường; cởi trói cho tư duy con người, đưa lại một bầu không khí dân chủ, cách nhìn thông thoáng, uyển chuyển về mọi mặt chính trị, kinh tế, văn hoá xã hội. Nhờ đổi mới, văn học có điều kiện chuyển mình với tinh thần nhìn thẳng sự thật, đánh giá đúng sự thật, nói rò sự thật. Không khí cởi mở, dân chủ của đời sống và học thuật đã tác động mạnh mẽ đến chủ thể sáng tạo, khiến cho quan niệm của họ về hàng loạt vấn đề dần thay đổi. Từ quan niệm về hiện thực, con người cá nhân đến quan niệm về cách viết, về sự cần thiết của việc đổi mới thi pháp thể loại. Quá trình đổi mới văn học ở Việt Nam diễn ra hết sức sôi động và đa dạng trên các thể loại: tiểu thuyết, truyện ngắn, thơ, kịch, ký,… Ngoài ra, phải nói đến lý luận, phê bình đã đạt được nhiều thành tựu, đặc biệt khi đi sâu cắt nghĩa tiểu thuyết và truyện ngắn theo hướng thi pháp học.

1.3. Truyện ngắn từng đóng vai trò xung kích, tiên phong trong quá trình hiện đại hoá văn học nước nhà ngay từ những năm đầu của thế kỷ XX. Thể tài này tiếp tục năng động, cơ động, có khả năng cập nhật hiện thực đời sống hàng ngày - một hiện thực luôn vận động, biến chuyển không ngừng.

Năm 2008, báo Văn nghệ đã xuất bản tuyển tập 60 năm truyện ngắn báo Văn nghệ (gồm 5 tập với 5 giai đoạn: 1945 - 1954, 1954 -1965, 1965 -

1975, 1975 - 1986, 1986 - 2007). Bộ tuyển tập này đã đem đến cho người đọc một cái nhìn bao quát về các chặng đường trong 60 năm phát triển của truyện ngắn Việt Nam. Qua đó, có thể hình dung được bước đi, những đổi mới của thể loại, dấu ấn của lịch sử, thời đại và tư duy nghệ thuật của nhà văn qua từng giai đoạn lịch sử cụ thể.

Trong ba mươi năm chiến tranh, truyện ngắn đã hoàn thành xuất sắc vai trò, sứ mệnh của mình là phục vụ kháng chiến với đề tài chiến tranh, không gian chiến trường và hình tượng là người lính. Với khối lượng đồ sộ, truyện ngắn giai đoạn này đã cổ vũ tinh thần nhiều thế hệ vượt qua khó khăn của kháng chiến, lay động lòng người vươn lên trong niềm tin chiến thắng, thức tỉnh con người về mặt trái của nó. Năm 1975, đất nước bước sang thời bình, nhưng văn học nói chung và truyện ngắn nói riêng vẫn còn lao theo quán tính của một nền văn học minh hoạ. Điều đó đã làm cho truyện ngắn xa rời cuộc sống, lạnh nhạt với tâm tư, tình cảm của con người. Tuy nhiên, đến cuối những năm 1970, truyện ngắn đã có sự chuyển động âm thầm, tích cực và cần thiết, tạo tiền đề cho quá trình đổi mới truyện ngắn đương đại. Tuy không phải là duy nhất, nhưng truyện ngắn lại tập trung nhiều các yếu tố đổi mới của nền văn học Việt Nam đang trăn trở chuyển mình. Có thể coi truyện ngắn giai đoạn 1975 -1985 là bước tiền trạm cho cái mới, là giai đoạn xây nền móng, vỡ giọng để phát triển rực rỡ từ sau năm 1985.

1.4. Trong các sáng tác qua từng giai đoạn, thi pháp truyện ngắn có chiều hướng rạn nứt dần, mà nhiều người gọi là hậu hiện đại. Là hướng nghiên cứu thiên về cắt nghĩa cái lý của hình thức, hình thức mang tính quan niệm, tức là hình thức mang tính nội dung, thi pháp học là cơ sở quan trọng trong việc xác lập và phân chia các giai đoạn, thời kỳ và khuynh

hướng văn học. Cho nên, để có giai đoạn phát triển rực rỡ từ năm 1986, văn học phải có thời gian manh nha hình thành, chuẩn bị hay gọi là thể nghiệm, đó là giai đoạn 1975 – 1985. Chúng tôi lấy thi pháp để soi rọi, so sánh giữa các giai đoạn phát triển của văn học, đặc biệt là giai đoạn trước và sau đổi mới.

Rò ràng, văn học luôn cần những tổng kết qua từng giai đoạn, từ đó đánh giá về nội dung, nghệ thuật và thi pháp, khuyến khích tìm tòi và thể nghiệm mới trong sáng tác và nghiên cứu. Đề tài Thi pháp truyện ngắn Việt Nam giai đoạn 1975 - 1985 sẽ góp phần giải mã những nét độc đáo đối với truyện ngắn giai đoạn này dưới góc nhìn thi pháp học. Trên cơ sở đó, so sánh với các thể loại văn học khác, hoặc giữa các giai đoạn, tạo điều kiện cho truyện ngắn tiếp tục có những đóng góp và tác động trong thực tiễn sáng tạo.


2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

2.1. Mục đích nghiên cứu

Chọn đề tài Thi pháp truyện ngắn Việt Nam giai đoạn 1975 – 1985, luận án khái quát những nét chung về truyện ngắn Việt Nam giai đoạn hậu chiến (1975 – 1985), đồng thời phác thảo diện mạo của thi pháp học trong nghiên cứu truyện ngắn nói chung và truyện ngắn thời kì này nói riêng.

Tìm hiểu truyện ngắn giai đoạn 1975 – 1985 trên quan niệm nghệ thuật về con người, thời gian, không gian và phương thức thể hiện dưới góc nhìn thi pháp học; luận án khẳng định vị trí, vai trò và đóng góp của những nhà văn tiêu biểu thời kì này trong tiến trình vận động và đổi mới văn học Việt Nam thế kỉ XX.

2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

Đưa ra một cái nhìn chung về truyện ngắn giai đoạn 1975 – 1985 từ góc nhìn thi pháp học. Khảo sát, phân tích, xác định thi pháp truyện ngắn

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 22/07/2022