Tâm lý khách du lịch - Trường ĐH Công nghiệp Quảng Ninh - 9

“kat”(mũ lông ngựa). Bộ “Hanbok” của nữ cầu kỳ hơn gồm “ch’ima” (váy dài màu đỏ thẫm) và “Chogori” (áo ngoài màu vàng hoặc xanh nhạt có viền tua rực rỡ). Trong các dịp lễ hội truyền thống mang tính chất dân tộc phụ nữ Hàn Quốc thường vận bộ “ch’ima” và đội mũ “chokturi” (mũ miện màu đen).

- Các lễ hội hàng năm của người Hàn Quốc gồm Sol (lễ đón năm mới), Hansik (ngày hội thức ăn lạnh tổ chức vào tháng tư), Ch’usok (rằm trung thu),...

- Người Hàn Quốc thích chơi thể thao, đặc biệt là các môn thể thao như bóng đá, bóng chuyền, gold, bóng chày, cricket, võ thuật...

2.7.2. Khẩu vị và cách ăn uống

Ngoài những nét tương đồng về khẩu vị và cách ăn uống với một số nước ở Đông Á, khẩu vị và cách ăn uống của người Hàn Quốc còn có những đặc điểm sau:

- Khác với một số nước Đông Á, không được dùng lẫn thìa và đũa, ăn cơm thường dùng thìa, gắp thức ăn phải dùng đũa, cầm bát lên ăn được xem là cử chỉ không lịch sự.

- Người Hàn Quốc chú trọng đến bữa sáng và bữa tối, bữa trưa được xem như một bữa điểm tâm.

- Ba món chính luôn có mặt trên bàn ăn của người Hàn Quốc là Pap (cơm), Kim chi (rau muối cay) và Kanjang (nước tương). Kim chi có vai trò rất quan trọng trong văn hoá ẩm thực của người Hàn Quốc, trong mâm cơm của người Hàn Quốc luôn có rất nhiều bát, đĩa nhỏ đựng các món Kim chi (có khi đến hơn 20 món Kim chi trong một bàn tiệc) và có rất nhiều màu sắc khác nhau. Kim chi là loại rau, củ (thường là cải thảo, củ cải, bắp cải,...) muối thường cho nhiều gia vị, đường, ớt đỏ, tép, dưa leo, gừng... có vị rất cay. Một số loại Kim chi còn có nguyên liệu là cá, thịt,...

- Trong khi ăn, mỗi người đều có bát cơm, canh, nước chấm riêng, các món khác ăn chung, bữa ăn thông thường của người Hàn Quốc có khá nhiều món khác nhau.

- Nhìn chung người Hàn Quốc thích các loại hải sản, thịt bò, thường dùng dầu vừng, thích các loại gia vị như tỏi, hành, ớt...

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 77 trang tài liệu này.

- Các món ăn nổi tiếng của người Hàn Quốc là thịt bò tẩm tương nướng than, Saengh (cá sống), chokkal (cá ngâm dầu), Naengmyon (mì lanh), K’ongguk (súp đậu ướp lạnh) và Poshintang (thịt chó).

- Trong văn hoá ẩm thực của người Hàn Quốc có nhiều loại bánh giàu dinh dưỡng như bánh bột gạo, bánh đậu hấp, bánh rán, bánh trôi, bánh tết... thường dùng khi uống trà hay sau bữa ăn. Bánh bột gạo là loại bánh truyền thống của người Hàn Quốc được làm bằng bột gạo; Bánh đậu được làm bằng bột gạo bọc nhân đậu giã nát rồi cho vào khay hấp chín; Bánh rán làm bằng bột gạo nếp nặn hình tròn, mặt ngoài có rắc cánh hoa hồng... cho vào chảo rán; Bánh tết làm bằng gạo nếp nặn thành hình tròn, cho vào nồi nấu chín, nhân bánh có vừng, đậu, quế, hạnh đào...

Tâm lý khách du lịch - Trường ĐH Công nghiệp Quảng Ninh - 9

2.7.3. Đặc điểm khi đi du lịch

- Người Hàn Quốc thường sử dụng các dịch vụ có thứ hạng trung bình, khá, họ quen sử dụng các trang thiết bị hiện đại.

- Thích thể loại du lịch biển, nghỉ ngơi, tìm hiểu, du lịch văn hoá. Mục đích chính ngoài du lịch đơn thuần còn mang mục đích kinh doanh.

- Thích bầu không khí vui vẻ, thích các cuộc tham quan tập thể.

- Giữ gìn bản sắc dân tộc khi đi du lịch, sôi nổi, cởi mở, vui vẻ nhưng lịch sự, chừng mực và có tính tự chủ khá cao.

2.8. Khách du lịch là người Ả rập

2.8.1. Tính cách dân tộc của người Ả Rập

Người Ả rập (với hơn 200 triệu người) tập trung nhiều ở các quốc gia vùng tây Á

, Trung Đông và bắc Phi như: Iran, Irắc, Oman, Saudi, Angieri, Yemen, Ma-rốc, Li- bi...Đa phần các quốc gia này đều được thiên nhiên ưu đãi cho nguồn lợi khá lớn từ dầu mỏ.

- Phần lớn người Ả rập theo đạo Hồi (thờ thánh Ala), họ rất sùng đạo, tin tưởng tuyệt đối và hết sức trung thành, chấp hành nghiêm chỉnh các quy định tôn giáo, thậm chí có nhiều người sẵn sàng “tử vì đạo”. Vì vậy cần tuyệt đối tránh việc nhạo báng diễu cợt hoặc tỏ thái độ lạ lùng trước những hành vi, tập tục của họ. Cũng chính vì sùng đạo mà tôn giáo và các đặc điểm nghi lễ phong kiến ăn sâu vào trong hành vi và cách ứng xử của họ. Vẫn còn tồn tại nhiều tập tục, nghi lễ hà khắc và man rợ. (phụ nữ ngoại tình, phụ nữ không chồng mà có con thường bị giết chết bằng cách ném đá...). Người Hồi giáo có lịch riêng (năm 2003 dương lịch là năm 1423 theo đạo Hồi), thứ bẩy hàng tuần là ngày dành riêng cho tôn giáo, dân theo đạo Hồi thường không được phép làm gì ngoài việc tiến hành các nghi lễ tôn giáo.

- Người Ả Rập nói riêng và người theo đạo Hồi nói chung thường có nhiều lễ hội tôn giáo:

+ Tháng Ramadam (tháng 9) là tháng ăn chay (hoặc nhịn đói) của các tín đồ, đến đầu tháng 10 mới chấm dứt (theo lịch đạo Hồi).

+ Sau đó là lễ hội hiến sinh (Grand Brarin) vào 10 tháng 12 (lịch đạo Hồi, tương ứng vào khoảng tháng 3 dương lịch) tín đồ khắp nơi đua nhau giết cừu để làm vật tế.

+ Ngày 12 tháng 3 (lịch đạo Hồi, tương ứng vào khoảng tháng 6 dương lịch) là ngày lễ Giáng sinh của Đấng tiên tri (Rabi-Oul Aoual).

+ Ngày 27 tháng 7 (lịch đạo Hồi, tương ứng vào khoảng tháng 10 dương lịch) là ngày lễ thăng thiên của Đấng tiên tri (Radjab).

- Thường sống theo kiểu đại gia đình, chủ nghĩa “gia tộc trị” đã chế ngự vững chắc trong đời sống của người Ả rập. Người Ả rập thường muốn cách li tình cảm với bên ngoài, không muốn người ngoài can thiệp vào vấn đề riêng tư của bản thân và gia đình mình.

- Vẫn còn tư tưởng: “trọng nam- khinh nữ”, phân biệt đối xử bất công với phụ nữ, đàn ông có quyền lấy nhiều vợ,... Theo tập tục, phụ nữ thường phải đeo mạng che mặt mỗi khi ra đường. Khi tiếp xúc với người Ả rập, không được hỏi thăm đến sức khoẻ của những người phụ nữ trong gia đình của người mà bạn đang tiếp chuyện, phạm sai lầm đó coi như là đã xúc phạm đến họ. Cần phải tuyệt đối tôn trọng phụ nữ Ả rập (tối kỵ là sàm sỡ, tán tỉnh, thậm chí là bắt tay phụ nữ) , cũng không nên khen trẻ em trước mặt bố mẹ chúng, vì người Ả rập có quan niệm điều này sẽ mang đến cho bọn trẻ những điều bất hanh, rủi ro.

- Người Ả rập có tính cách chịu đựng, nhẫn nhục, nhưng nóng nảy, táo bạo, khô khan và dễ thay đổi.

- Giàu lòng mến khách, chi tiêu phóng túng thoải mái, có tài hùng biện, trong giao tiếp thường dùng các câu thành ngữ, các điển tích cổ. Họ thường lễ phép, không thích cãi cọ, đối đáp trực tiếp với người nước ngoài.

2.8.2. Khẩu vị và cách ăn uống

- Đa số ăn bốc, khi ăn thường có một chậu nước để vừa ăn vừa rửa tay, kiêng bốc thức ăn bằng tay trái.

- Không uống rượu, kiêng ăn thịt chim bồ câu, thịt lợn, các loại thịt khác thường không ăn vào tháng ăn chay, và người theo đạo Hồi bị cấm uống rượu.

- Các món ăn Ả rập thường được chế biến từ bò, dê, cừu và gia cầm. Họ thường ăn ít rau.

- Khi phục vụ ăn uống cho người Ả rập không được tự ý đưa ra thực đơn mà luôn phải thông qua các ý kiến của họ. Thông thường người Ả rập chỉ dùng các món ăn theo truyền thống và tập quán của họ.

2.8.3. Đặc điểm khi đi du lịch

Với tư cách là khách du lịch, người Ả rập có một số đặc điểm sau:

- Có khả năng thanh toán khá cao.

- Thích các khách sạn có kiến trúc, phong cách phục vụ và chủng loại sản phẩm theo kiểu Ả rập.

- Muốn được tôn trọng các đặc điểm về tôn giáo, phong tục tập quán và nghi lễ của mình.

- Thường sinh hoạt bó hẹp theo cộng đồng của mình.

- Thích đến các thành phố lớn, thích các di tích cổ.

3. Những đặc điểm của khách theo nghề nghiệp

3.1. Khách du lịch là nhà quản lý - ông chủ

Động cơ của họ thường là công vụ, hoặc kinh doanh kết hợp với tham quan, giải trí. Loại khách này có khả năng thanh toán cao, quyết định tiêu dùng nhanh. Hành vi, cử chỉ và cách nói năng mang tính chỉ huy, thích được đề cao, nhiều lúc có biểu hiện của tính phô trương và kiểu cách. Loại khách này có nghệ thuật giao tiếp ứng xử, biết tranh thủ tình cảm của đối tượng giao tiếp, tuy nhiên họ thường hành động theo lí trí, ít hành động theo tình cảm, hay cảm tính.

3.2. Khách du lịch là thương gia

Mục đích chính của chuyến đi thường là tìm kiếm thị trường, buôn bán, có thể kết hợp với sự nghỉ ngơi giải trí. Loại khách này có một số đặc điểm như: Có nhiều kinh nghiệm, thủ thuật trong giao tiếp, ứng xử nhanh với tình huống, có khả năng và phương pháp thuyết phục cao, ngôn ngữ phong phú, độ “lì ” lớn, tuy nhiên trong cách giao tiếp hay dùng tiếng “lóng”, “chợ búa”. Loại khách này có khả năng thanh toán khá cao, tuy nhiên họ rất thực tế trong việc chi tiêu, họ ưa hoạt động, hay quan tâm khảo sát giá cả, nhanh nhạy với thị trường. Ngoài ra họ còn ham săn lùng thông tin, biết nhiều tin tức “vỉa hè”. Loại khách này cũng thường thể hiện tính phô trương và kiểu cách, hay kiêng kị và rất tin vào sự may rủi tuy nhiên lại sẵn sàng chấp nhận rủi ro.

3.3. Khách du lịch là công nhân

Mục đích chính của loại khách này thực sự là đi nghỉ ngơi, giải trí. Khả năng thanh toán của họ thấp, thường “xót xa” khi tiêu tiền ở điểm du lịch, tuy nhiên họ rất nhiệt thành, cởi mở, dễ dãi, đơn giản, thực tế, xô bồ, dễ bỏ qua, không ưa sự cầu kỳ khách sáo.

3.4. Khách du lịch là nhà báo

Do đặc điểm nghề nghiệp thường xuyên nắm bắt thông tin trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, vì vậy họ thường rất tò mò, hoạt động bất kể giờ giấc, tác phong khẩn trương. Khi phục vụ loại khách này tránh để cho họ không hài lòng.

3.5. Khách du lịch là nhà khoa học

Loại khách này bao gồm: các nhà khoa học, kỹ sư, bác sĩ, nhà giáo... Mục đích chính của loại khách này ngoài động cơ du lịch thuần tuý có thể có những người vì công việc kết hợp với sự nghỉ ngơi, giải trí. Đặc điểm của loại khách này là vốn tri thức rộng, hiểu biết nhiều, giàu óc tưởng tượng, tư duy logic, nhanh nhậy với cái mới và thích đổi mới. Họ có tác phong mực thước, ít nổi khùng, tuy nhiên họ lại hay cố chấp, hay châm

biếm trước những gì thái quá. Loại khách này thường có những yêu cầu về tính trung thực, chính xác, chuẩn mực trong phục vụ, thích được đối xử văn minh, tôn trọng và lịch sự.

3.6. Khách du lịch là nghệ sĩ

Loại khách này bao gồm những người hoạt động trong các lĩnh vực văn học, nghệ thuật (nhà văn, nhà thơ, nhà viết kịch, diễn viên, hoạ sĩ,...). Động cơ chính thường là nghỉ ngơi, giải trí và cũng là để tìm cảm hứng sáng tạo. Đặc điểm của loại khách này: giàu tình cảm, trí tưởng tượng phong phú, khả năng liên tưởng cao, hào phóng, thích làm cho người khác yêu mến, quý trọng. Thể hiện rõ tình cảm và cái “tôi”của mình khi tiếp xúc với người ngoại giới. Họ có khả năng đoán biết tương đối chính xác tâm lí của đối tượng giao tiếp, biết dẫn dắt câu chuyện tuy nhiên họ đóng kịch cũng rất giỏi. Loại khách này thường có thói chơi ngông, thái độ ngang ngạnh, tự do, thoải mái cá nhân, rất ghét sự gò bó nề nếp hay theo những khuôn mẫu nhất định.

3.7. Khách du lịch là thuỷ thủ

Do điều kiện làm việc bị gò bó cả về không gian lẫn thời gian, nên tâm lí của loại khách này thường muốn tranh thủ giải toả trong thời gian nghỉ ngơi, hay cập bến ở một hải cảng nào đó. Biểu hiện của loại khách này là sự tự do, vô độ, thậm chí thể hiện lối sống gấp.

3.8. Khách du lịch là nhà chính trị - ngoại giao

Loại khách này thường “hoàn thiện” về nhiều mặt, họ đề cao tính hình thức và lễ nghi,tính chính xác, lịch sự, tế nhị trong phục vụ. Ngôn ngữ, cử chỉ, hành động của loại khách này ít có sự vô tình hay ngẫu nhiên.

3.9. Khách du lịch là học sinh - sinh viên

Loại khách này mang nhiều đặc tính của tuổi trẻ (thiếu niên, thanh niên,- xem phần Những đặc điểm tâm lí phổ biến của khách theo độ tuổi). Ngoài ra họ còn có một số đặc điểm sau:

- Thường đi theo nhóm, riêng đối với học sinh thường có người trưởng thành (thầy cô giáo, người phụ trách, bố mẹ,...) đi cùng.

- Khả năng thanh toán không cao, việc tiêu dùng thường theo kế hoạch đã dự tính từ trước.

- Vui vẻ, thoải mái dễ hoà mình vào hoàn cảnh mới tuy mới đầu thường tỏ ra rụt dè, thăm dò. Tuy nhiên, họ cũng dễ rơi vào trạng thái chán nản, thất vọng khi có những điều không vừa ý.

- Thích giao tiếp, thích thể hiện bản thân, thích các sinh hoạt mang tính chất tập

thể.

- Ít khi đi một mình mà thường có bạn bè bên cạnh.

4. Một số đặc điểm của khách du lịch "balô"

Khách du lịch quốc tế vào Việt Nam rất đa dạng phong phú, có những loại khách sang trọng, cũng có những loại khách bình dân mà chúng ta vẫn thường gọi chung là khách du lịch “ba lô”. Khách du lịch “ba lô” không thuộc một phạm vi lãnh thổ nào, bao hàm cả người Âu, Mỹ, Á. Trong những năm từ 1990-1999 lượng khách này đến Việt Nam khá đông, trong những năm gần đây đã có xu hướng giảm dần, tuy nhiên chúng ta cũng cần tìm hiểu một số đặc điểm của họ.

- Thường đến Việt Nam với động cơ du lịch thuần tuý. Đa phần loại khách này còn rất trẻ ở độ tuổi từ 17-25, chủ yếu là thanh niên các nước châu Âu, bắc Mỹ, Nhật Bản, Hàn Quốc,... Với tính tò mò ham hiểu biết, loại khách này thực sự đến với cảnh quan và con người Việt Nam. Họ thích được tự nhiên hoà mình vào trong đời sống xã hội của con người Việt Nam.

- Họ thường tìm kiếm thông tin ở nhiều kênh khác nhau (các quán cafe du lịch, internet, các công ty/ đại lý lữ hành...), thường tự mình đến với các điểm du lịch nổi tiếng hoặc mua tour lẻ (những chương trình du lịch của các công ty du lịch Việt Nam tổ chức với mức giá khá rẻ, chất lượng trung bình, các công ty, đại lý du lịch thường gom khách với nhau để tổ chức,...)

- Phương tiện giao thông: Họ có thể sử dụng tất cả những phương tiện giao thông phổ biến của người Việt Nam, thông thường chủ yếu đi xe lửa khi đi xuyên việt, sử dụng ô tô, xe máy khi đi tham quan các tuyến lẻ. Trong thành phố thường thích đi dạo phố phường bằng xích lô, xe đạp/ xe máy (thuê), hoặc đi bộ...

- Lưu trú ở các khách sạn nhỏ, khách sạn tư nhân, nhà nghỉ với mức giá thấp, thường ở ghép 2- 3 người một phòng.

- Ăn uống đơn giản, chấp nhận giá cả và các món ăn đồ uống tại các quán ăn và nhà hàng hạng trung, họ cũng thường sử dụng đồ ăn nhanh như bánh mỳ kẹp thịt, uống bia hơi, họ thường đến với các địa chỉ ăn uống - lưu trú quen thuộc đã phổ biến với “khách ba lô” qua những luồng thông tin khác nhau.

- Thời gian lưu trú của khách du lịch ba lô tại một điểm du lịch nào đó thường không dài, vì do tò mò, nhiều thông tin lại ham hiểu biết nên họ nhanh chóng tiếp cận được với các điểm cần tham quan, thưởng ngoạn (không như các chương trình du lịch trọn gói).

Nhìn chung, loại khách này có mức chi tiêu thấp (tất nhiên không phải tất cả các khách du lịch balô đều có khả năng thanh toán thấp, mà nhiều khách có khả năng thanh toán cao cũng muốn vậy để có những cảm giác mạnh, được hoà mình và gần gũi với con người Việt Nam hơn). Tuy nhiên trên góc độ là khách du lịch quốc tế thì chính đối tượng khách này lại là người hiểu biết nhiều nhất về đất nước cũng như con người Việt Nam. Nếu mang lại cho họ những cảm xúc mới lạ, thích thú họ sẽ là những người quảng cáo tích cực nhất cho du lịch Việt Nam, góp phần vào việc tiêu thụ các sản phẩm du lịch Việt Nam trong tương lai.


CÂU HỎI ÔN TẬP CHƯƠNG 5

1. Trình bày những đặc điểm của khách du lịch theo quốc gia – dân tộc. Hãy so sánh những đặc điểm này giữa 2 quốc gia dân tộc ( một quốc gia thuộc Châu Á và một quốc gia thuộc Châu Âu hoặc Mỹ)

2. Những đặc điểm của khách du lịch vùng Đông Bắc Á có những điểm tương đồng và khác biệt nào so với người Việt Nam.

3. Những đặc điểm của khách du lịch vùng Đông Nam Á có những điểm tương đồng và khác biệt nào so với Việt Nam.

4. Trình bày đặc điểm tiêu dùng và tâm lý xã hội của khách du lịch ba lô

5. Hãy trình bày những nét đặc trưng cơ bản về khẩu vị và cách ăn uống và đặc điểm khi đi du lịch của người Pháp?

6. Hãy trình bày những nét đặc trưng cơ bản trong tính cách dân tộc và đặc điểm khi đi du lịch của người Anh?

7. Hãy trình bày những nét đặc trưng cơ bản về Tính cách dân tộc và khẩu vị ăn uống của người Trung Quốc?

8. Hãy trình bày những nét đặc trưng cơ bản trong tính cách dân tộc và đặc điểm khi đi du lịch của người Nhật Bản?

TÀI LIỆU THAM KHẢO


1. TS. Trịnh Xuân Dũng, Nguyễn Vũ Hà, Giáo trình tâm lí du lịch, NXB Văn hoá thông tin Hà Nội, 2003

2. Trần Trọng Thuỷ, Nguyễn Quang Uẩn, Tâm lí học đại cương, NXB giáo dục Hà Nội, 1998

3. TS. Nguyễn Đình Chính, TS. Phạm Ngọc Uyển, Tâm lí học xã hội, NXB Giáo dục Hà Nội, 2001

4. TS. Trịnh Xuân Dũng, Đinh Văn Đáng, Kỹ năng giao tiếp, NXB ĐHQG Hà Nội, 2004

5. TS. Nguyễn Văn Đính, Nguyễn Văn Mạnh, Giáo trình tâm lí và nghệ thuật giao tiếp ứng xử trong kinh doanh du lịch, NXB Thống kê Hà Nội, 1995

Ngày đăng: 02/11/2025

Gửi bình luận


Đồng ý Chính sách bảo mật*